Xã hội Đại Việt là một xã hội với nền kinh tế nông nghiệp là chính và tầng lớp nông dân chiếm đa số với suy nghĩ giản đơn, dễ tin vào mọi thế lực thần quyền mà họ cho là có khả năng giúp người ta thoát khỏi tai ương, khổ đau nên người dân thờ cúng nhiều thế lực siêu nhiên và đó chính là nguyên nhân của thực trạng đa thần giáo trong đời sống tâm linh người Việt. Họ thờ cả Tứ pháp (pháp Vân – mây, pháp Vũ – mưa, pháp Lôi – sấm sét, pháp Điện – chớp); thờ Phật, thờ thiên thần, nhân thần (người có công với nước, với dân); thờ nhiên thần (con vật, đồ vật, rừng núi, sông nước), thờ ma xó (người dân tộc), thờ thần Tài (người Kinh)..v.v…
Song song với những tôn giáo và tín ngưỡng nêu trên, với truyền thống ‘uống nước nhớ nguồn” người Việt còn thờ Quốc tổ Hùng Vương, Quốc Mẫu Âu Cơ và thờ tổ tiên, cụ kỵ, ông bà, cha mẹ, thờ cả bà cô, ông mãnh (là người thân thích chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng). Có lẽ trên thế giới chỉ có Việt Nam là nước mà người dân tôn thờ một vị Quốc tổ chung.
Trong phong tục thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam, người ta cúng bái người đã khuất vào ngày mất (tính theo Âm lịch) hoặc trong những dịp sóc vọng (ngày rằm, mùng Một), giỗ, Tết, Nguyên tiêu, Hàn thực, Vu lan, Trung thu…và không gia đình nào không có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Đây xuất phát từ lòng thành kính, biết ơn của người Việt đối với cha mẹ, ông bà, cụ kỵ. Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng rất quan trọng, không thể thiếu trong phong tục Việt Nam và là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ, gả chồng, sinh con, làm nhà, đào-xây mộ hay đi xa, thi cử…, người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên, cúng thần linh để báo cáo và cầu thần linh, tổ tiên phù hộ, hoặc để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt xuất phát từ quan niệm ‘uống nước nhớ nguồn” và niềm tin là người chết có thể phù hộ cho người sống. Vậy nên con cháu luôn phải tưởng nhớ người đã khuất, cúng bái khẩn cầu tiền nhân và tổ tiên che chở, dẫn dắt hậu thế, do đó việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm và cũng là sự báo hiếu của con cháu đối với tiền nhân.
Thường dân báo hiếu tổ tiên như vậy, vua chúa càng chú trọng đến việc này hơn và thực hiện ở quy mô lớn, long trọng hơn, ví dụ:
Năm 1527, Mạc Đăng Dung lên làm vua, xây dựng kinh đô ở Thăng Long nhưng đồng thời xây dựng điện thờ, lăng tẩm ở quê như các triều Lý, Trần, Lê. Trong sách Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn cho biết, tháng 6 năm Đinh Hợi (1527) “Đăng Dung vào kinh thành, ngự nơi chính điện, tế trời ở đàn Nam Giao, dựng tôn miếu, lấy Hải Dương làm Dương Kinh lập cung điện ở Cổ Trai, truy tôn ông tổ 7 đời là Mạc Đỉnh Chi làm Kiến thủy Khâm minh Văn hoàng đế” (Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, tr. 81). Mạc Đăng Dung còn cho xây lăng cha mình, dựng điện Sùng Đức trên nền nhà cũ của Mạc Đĩnh Chi và đắp gò lớn tại bờ sông ở phía bắc mặt trước điện để lễ bái. Việc thờ tự có vẻ long trọng nhưng thứ tự các đời không rõ, thân sơ không phân, không đúng với điển lễ” (Phan Huy Chú: Lịch triều Hiến chương loại chí).
Vậy là trong hoạt động thờ cúng tổ tiên triều Lê đến cuối thế kỷ XVIII, vẫn “không đúng với điển lễ” (lễ cổ của người Trung Hoa) mà thờ theo cách của người Việt Nam, không phải chỉ có sau 5 đời là cất thần chủ đi (như Trung Quốc) mà vẫn thờ tự. Đó chính là bản sắc văn hóa riêng của Việt Nam.
Trên đây là một số nét chính trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt. Ở phạm vi bài này, tôi muốn trình bày đặc trưng đời sống tâm linh, Phật giáo dưới thời nhà Mạc.
Phật giáo truyền vào nước ta từ thế kỷ thứ 2 và ngày càng ăn sâu bén rễ trong mọi tầng lớp dân chúng bởi giáo lý nhà Phật gần gũi với đời sống người Việt. Phật giáo đại thừa và tiểu thừa khi du nhập vào nước ta dần dần được bản địa hóa và mang bản sắc Việt Nam đặc trưng chứ không hoàn toàn giống Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc. Phật giáo Việt Nam từng có giai đoạn phát triển cực thịnh khi đạo Phật trở thành Quốc giáo (triều tiền Lê, triều Lý) và có những Quốc sư như Pháp Thuận, Ngô Khuông Việt và Minh Không mà nhà vua cũng phải kính trọng và tham vấn việc trị quốc, an dân. Do nhiều nguyên nhân, dần dần đạo Phật suy giảm vị thế và đến khi nhà Hồ (Hồ Quý Ly) thay thế nhà Trần rồi nước ta bị nhà Minh đô hộ và thi hành chính sách phá hoại – đồng hóa văn hóa thì đạo Phật không còn vị trí đáng kể trong xã hội Đại Việt.
Trong thời Lê sơ, thế kỷ XV, đặc biệt là dưới triều Lê Thánh Tông, với chính sách sùng Nho, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống nhà nước, giữ địa vị độc tôn. Khi đó, về nguyên tắc Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế, bài xích. Khi này, hiện tượng Tam giáo đồng nguyên (hòa quyện vào nhau cùng phát triển) dưới thời Trần không còn tồn tại.
Cuối thời Hậu Lê, các tôn giáo như Phật giáo, Lão giáo tuy không được tôn sùng nhưng vẫn lui về ở ẩn trong dân gian, đồng thời xuất hiện thêm tín ngưỡng Mẫu Tứ phủ (thờ trời, đất, rừng – núi, sông nước), thờ Mẫu Liễu Hạnh – một trong bốn vị thánh bất tử của thần điện Việt Nam.
Thời Mạc, tuy nho giáo vẫn là tôn giáo chính trong việc đào tạo tầng lớp quan lại nhưng với quan điểm thoáng, mở, khoan dung, nhà Mạc vẫn để các tôn giáo khác như Phật giáo, Lão giáo, tự do phát triển. Bên cạnh đó tín ngưỡng thờ Mẫu vốn có từ thời Hậu Lê vẫn tồn tại song hành với các tín ngưỡng khác trong dân gian. Nhờ chủ trương này, đạo Phật đã từng bị hạn chế dưới triều Lê sơ, nay có điều kiện để phục hưng, phát triển cả trong tầng lớp quý tộc lẫn trong quần chúng bình dân làng xã.
Giai đoạn nhà Mạc trị vì xuất hiện hiện tượng tam giáo đồng nguyên lần thứ hai (nên gọi là tam giáo tịnh tồn – cùng tồn tại thì chuẩn xác hơn) giống thời Trần. Tam giáo đồng nguyên thời Mạc là một tam giáo đồng nguyên mới, phi nhà nước và đậm tính dân gian nhưng đã được một số nho sĩ và các cá nhân trong tầng lớp quý tộc ủng hộ.
Người đứng đầu thuyết tam giáo đồng nguyên thời Mạc là nhà tư tưởng lớn -Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với quan điểm thể hiện rõ trong bài minh khắc bia đặt ở tượng Tam giáo chùa Cao Dương (Thái Bình) năm 1578. Đạo Nho của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã pha trộn khá đậm sắc màu của đạo giáo với những lẽ về biến dịch, sắc – không, hành xử ẩn dật, tiêu dao.
Trong 65 năm tồn tại chính thức (1527-1592) khi định đô ở Thăng Long và xây dựng Dương Kinh quê hương (nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy) mình làm kinh đô thứ hai, nhà Mạc đã thực thi một số chính sách thúc đẩy kinh tế, thương mại, mỹ thuật dân tộc, kích thích Phật giáo, nhất là mở mang thi cử, tuyển chọn nhân tài giúp nước. Triều Mạc tuy trị vì ngắn ngủi nhưng cũng mang lại cho đất nước bước khởi sắc về trật tự xã hội, kinh tế và văn hóa, trong đó có việc chấn hưng Phật giáo.
Nhà Mạc không ban hành chính sách cụ thể về tôn giáo, tín ngưỡng nhưng dựa trên những việc làm thực tế của vua quan, các thành viên hoàng tộc trong việc cúng tiền, tặng đất hưng công, xây dựng chùa chiền, tạc tượng, học theo điển lệ người xưa, chứng tỏ triều đại này rất tôn trọng phong tục dân tộc và quan tâm tới việc phát triển đạo Phật và cả đạo Lão. Các tín ngưỡng dân gian truyền thống như thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu, thờ Tứ phủ cũng có điều kiện phát triển.
Tín ngưỡng sùng bái và thờ cúng tổ tiên của người Việt đồng dạng với tục sùng bái và thờ cúng tướng lĩnh, anh hùng dân tộc có công với nước xuất phát từ truyền thống “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Các vị vua xưa thường là người khai sinh hoặc duy trì triều đại, chăn dân. Họ cũng như tổ phụ của dân tộc, trong khi tổ tiên là tổ phụ của gia tộc, gia đình. Chính vì vậy, ngay sau khi nắm quyền, vua Mạc Đăng Dung đã cho sửa sang lăng miếu của vua Lê ở Nam Kinh và định kỳ cúng tế. Có người cho việc làm này là mị dân, che mắt thế gian, mong yên lòng người, tránh sự phản kháng của quần thần nhà Lê. Nhưng đánh giá như vậy có thật khách quan không? Lịch sử Việt Nam đâu phải không có chuyện, để độc bá thiên hạ, các triều đại sau đã triệt phá dấu tích của các vương triều trước. Nếu Mạc Đăng Dung không phải là người nhân đức, trung nghĩa thì sao lại làm vậy?.. Nên xem việc duy trì lễ cúng tế tông miếu nhà Lê của Mạc Đăng Dung không phải chỉ là để tri ân một triều đại có đối với đất nước, mà việc ông làm là để tôn vinh công trạng của nhà Lê với lịch sử dân tộc trong quan điểm “uống nước nhớ nguồn”.
Tiếp đó, Mạc Đăng Dung lệnh cho trưởng thái giám hiệu Thụy Trúc thiền sư xây dựng chùa bà Đanh (ở thôn Trà Phương, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy nay). Đây là sự mở đầu cho công cuộc sửa sang, xây dựng lại những ngôi chùa đã bị phá bỏ trong thời kỳ thuộc Minh và lãng quên bởi nhà Lê sơ, tạo tiền đề cho sự phát triển của đạo Phật.
Sự hưng khởi của đạo Phật vào thời nhà Mạc còn thể hiện ở chính sách ruộng đất. Nhà nước cho phép cá nhân cúng ruộng vào chùa dưới dạng làm công đức và đặt hậu. Chính vì vậy, dưới thời Mạc hầu như chùa nào cũng có ruộng, trong đó nhiều chùa có số ruộng lớn hàng chục mẫu như: Chùa Pháp Vũ (Thường Tín – Hà Nội) 70 mẫu, chùa Hoa Tân (Hải Phòng) 50 mẫu, chùa Nghiêm Quang ( Hải Phòng) 31 mẫu, chùa Thiên Phúc (Hải Phòng) 25 mẫu 1 sào 2 thước.
Chùa chiền thờ Phật nở rộ dưới thời Mạc phần lớn là trùng tu, nâng cấp những chùa cũ, một số xây dựng mới. Kinh phí chủ yếu là do dân làng đóng góp và sự tham gia của các tín đồ sùng Phật và những nhà hảo tâm. Việc trùng tu và dựng bia chùa được phân bố ở nhiều địa phương, nhưng tập trung ở hai vùng chung quanh Dương Kinh và kinh thành Thăng Long. Còn ở những nơi xa kinh kỳ như Ninh Bình, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Phú Thọ, việc xây dựng chùa đều do các quan địa phương khởi xướng với sự tham gia đóng góp của nhân dân trong làng xã.
Thời nhà Mạc, tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng làng manh nha dưới triều Lê sơ lại trở lên phổ biến. Đó là những tướng lĩnh, anh hùng dân tộc có công chống giặc ngoại xâm hay người có công dựng làng, mở ấp, truyền nghề cho dân…được thờ phụng trong các đình làng. Trong các dịp kỷ niệm ngày sinh hay ngày mất hoặc ngày thắng giặc của những nhân vật này người dân lại mở lễ hội tri ân công đức họ.
Lễ hội Minh thệ ở thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên (Kiến Thụy) là một lễ hội dân gian truyền thống được bảo lưu đến ngày nay là một lễ hội độc đáo. Đó là một lễ hội tương truyền do Thái Hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn lập ra từ năm 1527, học theo Hội thề đền Đồng Cổ thời Lý. Khi đó, cứ đến rằm tháng giêng hàng năm, các quan lại trong triều Mạc tụ họp về đây, trước là để vấn an Thái Thượng Hoàng Mạc Đăng Dung, sau là để làm lễ Minh thệ (khi đó Dương Kinh là kinh đô dự phòng của nhà Mạc). Phần lễ bắt đầu cử hành bằng cách đọc bản Minh thệ với nội dung là các quan thề với trời đất, thánh thần hết lòng mẫn cán và liêm khiết trong công vụ. Trong số đó có câu thề rằng: “dĩ công vi công, thần linh phù trợ, dĩ công vi tư, đả tử”, nghĩa là lấy của công làm việc công thì được thần linh giúp đỡ, nếu lấy của công làm của tư thì bị đánh chết. Tiếp đó viên quan chủ lễ cầm kiếm chỉ trời, vạch đất, chém vào cột đá và xướng hô “Xin thề”. Các quan dự lễ đồng loạt hưởng ứng hô vang “Xin thề” và uống cạn ly rượu có pha máu con vật hiến tế (vật hiến tế nay là tiết con gà trống lông vàng, chân vàng, mào đỏ theo dân gian có thể thông linh với thần thánh).
Tình tiết “chém vào cột đá” gợi chúng ta nhớ lại sự kiện lịch sử được ghi trong sử sách khi Hùng Duệ Vương (vua Hùng thứ 18) nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán đã dựng 2 cột đá trên núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ) và chém vào đó lập lời thề “Nguyện có trời cao lồng lộng soi xét, chẳng dám sai lời. Nước Nam trường tồn lưu ở miếu Hùng Vương. Ví bằng vua sau nối nghiệp trái ước phai thề sẽ bị trăng vùi gió dập, trời đất cùng tru diệt”. Có lẽ hành động chém đá thề với trời đất là hành vi mang tính thiêng trong các lễ thề đã được lặp lại ở lễ Minh thệ thời nhà Mạc, chỉ có điều, ý nghĩa lời thề là khác nhau. Xuất phát từ việc chém đá thề mà dân gian ta có câu “lời thề như dao chém đá”.
Do những dấu tích, thư tịch phản ánh công lao của nhà Mạc đều bị chúa Trịnh và nhà Lê trung hưng cho hủy hoại hầu hết, nên tư liệu văn bia còn lại đến nay chính là một trong những nguồn khảo cứu quan trọng giúp ta hình dung được sự phát triển của đời sống tâm linh, tôn giáo, (trong đó có đạo Phật) dưới thời Mạc.
Tư liệu văn bia thời Mạc phản ánh sự phát triển mạnh mẽ trở lại của đạo phật. Trong số 146 bia thời Mạc còn lại tới nay có tới 109 bia chùa với nội dung về ruộng đất chùa, việc xây dựng và người hưng công.
Đi tiên phong cho việc xây dựng chùa, tháp, tạc tượng, đúc chuông là các thành viên của hoàng tộc nhà Mạc, tiếp đó là những người hiển danh có điều kiện kinh tế, cuối cùng là nhân dân địa phương. Theo tư liệu văn bia, có hàng trăm thành viên trong hoàng tộc và các đại thần của triều đình tham gia tu bổ và xây chùa phật. Đặc biệt, tuy phần lớn chùa được xây bởi tiền bạc của các thành viên trong hoàng tộc và các quan trong triều nhưng chùa vẫn thuộc về làng và do làng quản lý. Điều này cho thấy việc phát tâm xây dựng chùa nhằm tích đức, làm phúc hơn là thể hiện quyền lực của Hoàng gia ở địa phương như thời Lý, Trần
Trong số những thành viên của hoàng tộc cung tiến tiền của xây dựng chùa trước hết phải kể đến các vị đương kim hoàng ng như: Mạc Phúc Nguyên, đã ban “Cấm tiền” cho chùa Linh Cảm (Từ Sơn – Bắc Ninh, năm 1557), Mạc Mậu Hợp cúng 20 lạng bạc vào chùa Hoa Tân (Hải Phòng, năm 1582). Đặc biệt, Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn được xem là người cung tiến nhiều nhất hoàng tộc. Bà đã cúng 30 mẫu ruộng và 6000 lá vàng cùng bạc tiền cho trên chục ngôi chùa ở khu vực Dương Kinh (Kiến Thụy nay) và vùng phụ cận. Do công đức xây chùa và những việc làm nhân đức, bà được dân gian tôn phong là “mẫu nghi thiên hạ, là Phật sống trên trần gian”. Chính vì lẽ đó, bà Thái Hoàng Thái Hậu được dân làng nhiều nơi tạc tượng thờ còn để lại đến ngày nay ở một số chùa thành phố Hải Phòng.
Vị Thái hoàng Thái Hậu này còn tham gia xây chùa Thiên Phúc tự (ở làng Hòa Liễu, xã Thuận Thiên, Kiến Thụy nay) và một số chùa khác cùng các thành viên hoàng tộc như: Hoàng Thái Hậu họ Phan, Khiêm Thái Vương họ Mạc, Tĩnh Quốc Thái phu nhân họ Nguyễn, Tu Hòa Thái Trưởng công chúa họ Mạc, Bảo Gia thái trưởng công chúa họ Mạc, Phúc Thành thái Trưởng công chúa họ Mạc, Khiêm Thái Vương phi họ Mạc,…..Tổng cộng 33 người. Đặc biệt, bà Quận công Mạc Ngọc Liễn và Phúc Thành Thái trưởng Công chúa tham gia xây dựng hàng chục ngôi chùa, quán, trong đó có Linh Tiên đạo quán. Họ trở thành tín đồ có pháp danh: Đức Quảng (Mạc Ngọc Liễn) và Từ Đức (Phúc Thành) như nhà tu hành Phật giáo thực thụ. Các thành viên trong hoàng tộc Mạc đã công đức xây khoảng 80/168 ngôi chùa trong thời kỳ này.
Thời gian này, trong tâm thức dân gian, Phật và Bồ tát (nhất là Bồ tát Quan Âm Diệu Thiện) được đồng hóa với Tiên Thánh của Đạo giáo. Theo họ, Phật, Tiên, Thánh tuy khác nhau ở tên gọi nhưng đều là những “phúc thần” có khả năng trừ tai, ban phúc cho người đời. Việc thờ Phật là để cầu phúc nên với quý tộc nhà Mạc, việc phát tâm trùng tu chùa, đạo quán cũng không ngoài mục đích trên. Bia chùa Viên Quang ghi: “Giáo lý nhà Phật khiến người đời tính kính để được báo phúc. Nay Thái hoàng thái hậu là mẹ Thiên tử, là vị Phật sống trên trần, gieo trồng tám ruộng phúc, dựng chùa Phật để cầu đời đời con thánh, cháu hiền, xứng bậc đế vương. Nay Phụ chính Ứng Vương dựng chùa Viên Quang cũng là để phát lòng từ bi, vui làm điều thiện. Sở dĩ làm như vậy bởi chưng muốn nhờ chùa Phật nước Nam, để quốc mạch dài lâu. Trên thì vương công, dưới thì sĩ thứ dốc lòng thờ Phật, bố thí nhiều không tư lợi” (Đinh Khắc Thân – Văn bia thời Mạc, Nxb KHXH, Hà Nội, 1996.- tr.195).
Cuối thời Mạc, trước sự tấn công và chiến thắng của Nam triều đối với Bắc triều, các ông hoàng, bà chúa nhà Mạc càng ra sức trùng tu, xây dựng chùa quán, tô tượng, đúc chuông, cúng ruộng để ơn nhờ đức Phật “cứu nạn”, diên trì triều đại, “cầu phúc cho cơ đồ bền vững, thiên hạ thái bình” (Bia chùa Phúc Lâm Hoằng Thệ, năm 1589).
Cũng cần phải nói, thứ nhất: Phật giáo thời Mạc tuy được chấn hưng nhưng thiếu chiều sâu tư duy triết lý. Cũng có thể, vì hầu hết các bia chùa thời Mạc do các nhà Nho “vui với việc thiện mà gắng làm”((Đinh Khắc Thân – Văn bia thời Mạc, Nxb KHXH, Hà Nội, 1996.- tr.195) nên không phản ánh hết suy nghĩ của giới Phật tử chăng?. Thế kỉ XV – XVI nho sĩ có vai trò rất lớn trong các hoạt động tín ngưỡng và văn hóa xã hội làng xã. Thời Mạc ngày càng có nhiều nho sĩ trí thức trở về sống ở làng xã. Các nho sĩ đã tham gia vào mọi hoạt động của địa phương như công đức xây dựng, tu bổ các công trình tôn giáo, cũng như các hoạt động tín ngưỡng và văn hóa mà văn bia đã phản ánh khá cụ thể. Ngoài ra, họ còn trực tiếp tham gia vào việc quản lí làng xã, bởi họ là những “quan viên” trong hội đồng kì mục của làng xã.
Thứ hai, trong thời Mạc, giáo lý Phật giáo kém phát triển. Mặc dù dưới triều Mạc xuất hiện một thiền sư khá nổi tiếng là Chân Nghiêm trụ trì tại chùa Sùng Quang, xã Xuân Lâm, huyện Cẩm Giàng có nguyện ước bảo tồn truyền thống dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, nhưng nhìn chung thời kỳ này giáo lý không có gì mới. Thiền sư Chân Nghiêm cho in và công bố sách Thánh Đăng Ngữ lục và viết lời tựa cho sách này vào năm 1550 đời Mạc Phúc Nguyên. Sách ghi chép tiểu sử của 5 vị đại thiền sư đời Trần là Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang và Trần Minh Tông. Hạn chế của Thánh đăng ngữ lục là có nhiều tài liệu trùng với Tam Tổ Thực Lục và Khóa Hư Lục.
Khi Chúa Trịnh giúp vua Lê khôi phục kinh sư Thăng Long đã đem quân đốt phá hết cung điện, lầu các ở Dương Kinh Hải Phòng, hủy bia đá ở mộ các thân vương nhà Mạc ở Cổ Trai, chặt hết cây trồng trong lăng.
Nhân dân nhiều nơi, nhất là người xứ Đông (gồm các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh và một phần đất thuộc 2 tỉnh Hưng Yên và Thái Bình) vốn rất cảm tình với nhà Mạc đã gìn giữ được một số di vật quý giá mà từ trước năm 1945 ta đã biết là các bia đá và chân đèn gốm khắc rõ các niên hiệu thời Mạc, sau đó lại biết tượng Mạc Đăng Dung và bà Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn (chính thất của vua Mạc Đăng Dung) ở chùa Thiên Phúc (thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên huyện Kiến Thụy); Tượng Mạc Đôn Nhượng ở chùa Phúc Linh (thôn Nhân Trai, xã Đại Hà, Kiến Thụy) và sau này một số tượng Vua ở các nơi khác. Các pho tượng đá mà dân gian gọi là Đức Ông đội mũ trụ, tạc hao hao giống các vua Mạc được nhân dân dấu tại nhiều chùa trên địa bàn Hải Phòng chứng tỏ triều Mạc vẫn được dân xứ Đông tôn kính. Tổng cộng có 7 bức tượng trong chùa trên địa bàn Hải Phòng được cho là tượng vua Mạc (Mạc Đăng Dung hoặc Mạc Mậu Hợp). Hai vị vua này để lại dấu ấn trong dân gian vì Thái tổ Mạc Đăng Dung có công lập lên triều Mạc, còn Mạc Mậu Hợp là người giữ ngai vàng lâu nhất (1562-1592)
Thời Mạc, đình, chùa gắn với làng là nơi sinh hoạt tôn giáo, tâm linh của làng, trong đó việc bài trí điện thờcũng như nghi thức thờ phụng mang đậm tính địa phương. Đây chính là sự mở đầu của quá trình dân gian hóa Phật giáo.
Tính chất dân gian của đạo Phật thể hiện rõ nét trên điện Phật (Tam Bảo). Điện Phật trong chùa thời nhà Mạc có nhiều thay đổi so với các thời kỳ trước đó. Từ thời Lý, Trần, đến Lê sơ, trên điện Phật mới chỉ có bộ Di Đà tam tôn (A Di Đà), Đại Thế chí, Quán Thế Âm) (loại điện Phật thuần túy chưa pha trộn các tín ngưỡng tôn giáo khác). Thời Mạc xuất hiện thêm nhiều tượng mới trên Phật điện như: Thích Ca sơ sinh, Hộ Pháp, Bồ Tát, La Hán, Kim Cương là những tượng thuộc Phật giáo; Tam thanh, Ngọc Hoàng, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Nam Tào, Bắc Đẩu, Pháp Lôi Sư tướng là tượng thần đạo giáo (cùng được phối thờ). Ngoài ra trong chùa còn có các tượng thần khác như: Tam Giáo, Diệu Thiên, Sư Tổ, Hậu Long thần, Thổ địa thuộc tín ngưỡng dân gian. Như vậy, điện Phật trong chùa dưới thời Mạc đã có sự thay đổi căn bản: không còn thuần Phật.
Nếu như trước đây trong chùa chỉ có Phật điện thì ở thời kỳ này nhiều tượng Thánh đã được đưa vào. Việc đưa tượng thần của tôn giáo tín ngưỡng khác vào chùa cho thấy tính tự do, phóng khoáng trong đời sống tâm linh thời kỳ này. Đây là cơ sở khẳng định đạo Phật ngày càng mang tính dân gian dưới triều Mạc bởi như đã nói ở trên người dân quan niệm Phật, tiên, thánh đều có khả năng trừ tai họa, ban phúc cho người đời nên đều được phối thờ.
Cuộc nội chiến Lê – Mạc kéo dài hơn 140 năm đã gây lên bao nỗi khổ triền miên cho nhân dân, khiến con người tìm đến với đạo phật như một cứu cánh tinh thần. Đạo Phật đã chỉ cho con người thấy cuộc đời là bể khổ trầm luân, giả tạm. Từ Hoàng Hậu, thân vương, công chúa triều Mạc đến dân thường đã tìm thấy ở đạo Phật niềm an ủi trong tâm hồn. Từ mật độ đình, chùa được xây dựng dưới thời Mạc và việc người dân bí mật bảo vệ hình tượng các thân vương nhà Mạc như Mạc Đăng Dung, Mạc Đôn Nhượng, 2 bà Hoàng Thái Hậu nói trên… cho thấy nhà Mạc đã biết cách chiều theo lòng dân thông qua hoạt động hoằng dương đạo Phật, đề cao khoa cử và như thế mới giải thích được việc tại sao khi nhà Mạc thất thế mà lòng dân xứ Đông vẫn không quên nên họ mới che dấu nhiều tượng Đức Vua dưới ao, giếng hay tượng bà Hoàng Thái Hậu, công chúa Mạc ẩn dưới lốt Phật bà quan âm, chúa Thượng Ngàn).
Cuối cùng, để đánh giá công lao của nhà Mạc đối với đạo Phật và văn hóa dân tộc, xin dẫn ra đây nhận định sau của các học giả trong cuốn Mỹ thuật thời Mạc (Nxb. Hà Nội, năm 1993): “Các nhà nghiên cứu khi xem xét mỹ thuật thời Mạc thể hiện trên các kiến trúc, điêu khắc, trang trí đình, chùa, tượng Phật, tượng thờ, gốm sứ đã kết luận thời nhà Mạc trị vì là thời đại chấn hưng của Phật giáo sau hàng trăm năm bị ức chế bởi chủ trương dương Nho ức Phật của nhà Lê sơ. Sự hưng khởi này đã tạo ra sức sống mãnh liệt cho một nền mỹ thuật mang đậm bản sắc dân tộc, dân gian”.
Nguồn: Phạm Văn Thi, Hội văn nghệ Dân gian Hải Phòng.
Viết bình luận