Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung

Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung

Thời thế tạo anh hùng

Nhà Lê, từ khi Thái Tổ Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn đánh đuổi được giặc Minh, lên ngôi Hoàng đế ngày rằm tháng Tư năm Mậu Tuất (1428), trải qua các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiến Tông (*), đến triều vua kế vị (1504), đã được 76 năm.

Vua Hiến Tông mất không quá đột ngột:

Đêm ấy, như lệ thường, Phụng nghi Thái giám Nguyễn Khắc Hài đưa Bạch Yến vào hầu vua. Vừa thấy người cung nữ, nhà vua đã ưng ý. Nàng không những đẹp mà còn khoẻ mạnh. Nhà vua vốn không câu nệ sang hèn cho lắm, cốt sao cung tần mỹ nữ phải đẹp và khoẻ mạnh, nhất là biết cách làm cho vua vui thú. Đã liễu yếu đào tơ mà lại e thẹn, nhà vua không thích. Chỉ Khắc Hài mới đáp ứng được sở thích của vua, tìm được cho vua những người vừa ý, mỗi đêm một người, nên từ một quan hoạn hạ đẳng y đã nhanh chóng trở thành Nội thị thứ đẳng rất được tin cậy. Nhà vua vừa đi Lam Kinh dâng hương các tiên đế ở Thái Miếu về, phải trai giới mấy chục ngày nay nên trong người vô cùng bứt rứt, lúc này chén “xuân dược tửu” nhà vua uống trong lúc chờ Khắc Hài và Bạch Yến lại đã ngấm nên không đợi viên hoạn quan đi khỏi, nhà vua đã ôm ngay lấy người đẹp dẫn vào long sàng.

Nguyễn Khắc Hài ra ngoài sảnh chờ, bao giờ cũng vậy, để gà gáy thì đón cung nữ về, phần nữa để phòng xa ngộ hai bà phi được vua rất yêu là Mai Quý phi và Bùi Quý phi đến thì tìm cách ngăn cản. Cuối canh tư bỗng thấy Bạch Yến kêu thất thanh, Khắc Hài vội đẩy cửa chạy vào thì thấy nàng đang ôm chặt nhà vua trên người. Bạch Yến mặt mày nhớn nhác, hoảng sợ; nhà vua thì bất động, mồ hôi vã ra như tắm, da bợt như sáp, mồm há mà không thể nói được vì lưỡi rụt lại! Khắc Hài vừa hô hoán gọi người vừa bảo cung nữ vẫn cứ phải ôm chặt lấy nhà vua. Bạch Yến thừa biết, không cầm viên hoạn quan phải dặn, nhà vua chỉ cần rời khỏi người nàng là không còn cách nào cứu nổi. Tận lúc mọi người vào, xúm đông xúm đỏ bên long sàng, nàng và nhà vua vẫn cứ phải trong tư thế ấy, mãi khi Ngự y Nguyễn Đại Khải tới xoa thuốc, bấm huyệt, châm cứu và gỡ nhà vua ra, cả hai mới thoát khỏi cảnh bất tiện. Cho đến lúc này Bạch Yến mới cảm thấy xấu hổ, toàn thân đỏ nhừ, lúng túng mãi mới mặc xong áo xống. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi vẫn cứ lớn hơn sự xấu hổ. Nàng khóc lóc, thanh minh rằng thấy nhà vua ham quá, sợ hại đến long thể, lần nào nàng cũng can ngăn nhưng chẳng lần nào nhà vua chịu nghe nên mới đến nông nỗi.

 

Nghe tin, một số phi tần kéo đến.

Mai Quý phi chỉ mặt Bạch Yến, nghiến răng nghiến lợi: “Con tiện nhân này, Thánh thượng có làm sao thì cả nhà mày không thoát khỏi hoạ tru di!”. Bùi Quý phi cũng mắng Bạch Yến xối xả. Bạch Yến sợ quá sụp lạy nhưng chưa kịp nói gì thì hai bà phi đã quay ngoắt, bực tức bước khỏi cung.

 

May sao Hiến Tông qua khỏi. Đó cũng là nhờ tài châm cứu của Nguyễn Đại Khải, tiếp thu từ cha mình là danh y Nguyễn Đại Năng đời nhà Hồ. Không dám tâu với nhà vua, Đại Khải chỉ dám nói với Hoàng thái hậu và các hoạn quan rằng nhà vua phải xa lánh đàn bà sáu tháng mới hòng khỏi hẳn. Kiêng được hơn tháng, thấy mình đã khoẻ nhà vua lại gọi Bạch Yến vào hầu. Tính nhà vua cả thèm chóng chán nên Bạch Yến thành ra một ngoại lệ. Nhà vua gắn bó với nàng gần hai tháng nữa, rồi từ đó lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi, dẫu Bạch Yến yêu chiều hết mức hết cách, cũng chỉ biết gối đầu lên đùi nàng ngủ, không thiết tha gì chuyện nọ kia. Một hôm, không thấy Bạch Yến vào hầu, hỏi thì Khắc Hài loanh quanh, mãi sau mới nói thật rằng nàng đã trốn khỏi cung, có lẽ sợ nhà vua có mệnh hệ nào lại liên luỵ! Nghe xong, nhà vua rên một tiếng và thấy lạnh toát người. Ngự y Nguyễn Đại Khải bắt mạch và lắc đầu. Biết mình không qua khỏi, nhà vua truyền gọi mọi người để ban di chiếu rồi cầm tay Hoàng thái hậu và hai Quý phi, nước mắt ứa ra, cứ thế không nói nên lời, gần sáng thì băng hà, ở ngôi được 7 năm, thọ 44 tuổi.

Tự vương Lê Thuần (Túc Tông) lên ngôi, tôn vua cha là Hiến Tông, bà là Trường Lạc làm Thái hoàng thái hậu, mẹ là Nguyễn Quý phi mất từ lâu, được truy tôn là Trang Thuận Hoàng thái hậu, các bà Mai Quý phi, Bùi Quý phi đều được tôn làm Thái phi.

Theo lệ, quần thần nghị bàn, luận công lao Hiến Tông rằng tiên đế trí tuệ hơn người, tính tình nhân từ, ôn hoà, chăm chỉ luyện rèn nên cho dựng các điện Thượng Dung, Giám Trị, Đỗ Trị, Trường Sinh làm chỗ nghỉ ngơi, đọc sách và ăn chay; khi bàn đến chính sự, dù nghe điều hay điều dở lời nói lúc nào cũng dịu dàng, nét mặt vui tươi, không làm nghiêm trọng sự việc, quần thần có ai lầm lỗi cũng chỉ răn quở qua loa, không bao giờ dùng roi vọt hạ nhục.

 

Thái sử Quốc sử quán là Lê Hy tán thành như vậy và tâu cần phải ghi thêm vào quốc sử rằng Hiến Tông còn ra sức chăm lo cho dân nên đê điều vững chắc, ruộng vườn tươi tốt, nhà nhà thóc lúa đủ đầy, nhờ đó kho tàng lúc nào cũng sung túc, quân đội hùng mạnh, chỉ tiếc là nhà vua do ham mê nữ sắc quá độ nên sớm bạo bệnh và qua đời.

 

Trường Lạc Thái hoàng Thái hậu, Mai Thái phi, Bùi Thái phi và một số đại thần có ý không bằng lòng về việc nói Hiến Tông ham mê nữ sắc nhưng cũng không thể phản bác vì đó sự thật mười mươi, chỉ yêu cầu sử quan viết cho đẹp rằng nhà vua do làm việc quá sức nên suy kiệt. Lê Hy vẫn khăng khăng rằng ông không thể viết như vậy vào sử sách được, ông chỉ biết viết đúng sự thật! Bùi Thái phi nổi giận đùng đùng, vụt đứng dậy bỏ về cung, nhưng giữa chừng bỗng quay lại, bực tức nói đến lạc giọng:

- Nội thị đâu, đem con Bạch Yến đến đây cho ta!

- Tâu Thái phi... – Nguyễn Khắc Hài ấp úng.

- Hừ, ta quên, con tiện nhân ấy trốn mất rồi! Đồ yêu ma yêu nữ, không thể nào thoát khỏi tay ta đâu.

Lê Hy thưa:

- Tâu Thái phi, Bạch Yến không có tội. Tiên đế rất yêu quí Bạch Yến, thần chỉ e nếu làm điều gì không phải sẽ động đến oai linh tiên đế.

Không ai bàn luận gì thêm. Bùi Thái phi giận run người, tức tối về cung. Bùi Thái phi vốn được Hiến Tông rất yêu. Yêu đến mức lấy vàng dát ở chiếc cột nơi bà đứng hầu để phân biệt bà với các cung tần khác. Bà sinh cho nhà vua Thông vương Dung.

 

Tan chầu, thấy Thái sử Lê Hy đi cùng và trò chuyện với Tu soạn Quốc sử quán Vũ Quỳnh, Thái giám Nguyễn Khắc Hài há mồm, chỉ vào và hỏi: “Răng với lưỡi cái nào chết trước?”. Tưởng Lê Hy và Vũ Quỳnh sẽ nói răng dù cứng nhưng sớm rụng nên chết trước, lưỡi tuy mềm nhưng chỉ chết khi toàn thân đã chết. Không ngờ Lê Hy lại đáp: “Cái đó cũng tùy, răng tuy sớm rụng song không làm người ta chết ngay, lưỡi tuy mềm nhưng khi cứng lại không nói được là người sắp lìa đời cho dù răng chưa rụng chiếc nào!”. Vũ Quỳnh tiếp lời: “Quan hoạn cũng là người nên chắc cũng thế thôi!”. Khắc Hài đỏ mặt không nói lại được câu nào.

 

Cái chết của vua Túc Tông mới thật đột ngột:

Vua Hiến Tông có sáu hoàng tử: An vương Tuân, con Mai Quý phi, là con trưởng, học rộng, khí lực hơn người nhưng tính khí nóng nảy và có phần khác người; hồi nhỏ An vương thích mặc áo con gái, có lần bị mẹ cấm đoán nên trái ý và đã dùng thuốc độc định giết mẹ vì vậy bị Hiến Tông ghét và phế bỏ thứ bậc. Uy vương Tuấn, con Nguyễn Chiêu phi, là thứ hai, thông minh sắc sảo nhưng lại là con người tì thiếp nên trước khi mất Hiến Tông ban chiếu truyền ngôi cho con thứ ba là Tự vương Thuần, con Nguyễn Quý phi.

 

Mặc dù vậy, Cao Thái phi, vợ vua Thánh Tông, vẫn muốn lập An vương Tuân. Lý bà này đưa ra là lâu nay Đông cung không hoàng tử nào được tới ở, chứng tỏ Hiến Tông còn chưa dứt khoát việc chọn Thái tử, chuyện ban chiếu trong lúc sức khoẻ nhà vua đã suy kiệt không thể coi là minh mẫn. Thực ra, ngoài cái lý đó, Cao Thái phi còn có những điều không thể nói trắng ra được. Ngày trước, Mai Quý phi vốn là người hầu của Cao Thái phi, được bà yêu quý như con rồi cho vào hầu Đông cung Thái tử, tức là vua Hiến Tông sau này, rồi sinh ra An vương Tuân. Nhưng cái sâu sắc của đàn bà không thể qua được các vị đại thần, họ lấy gậy ông đập lưng ông, viện chính việc trước đây không lập Đông cung Thái tử, chứng tỏ Hiến Tông không muốn An vương kế vị, để sau này lập Tự vương. Cao Thái phi đành chịu.

 

Tự vương Thuần ngay từ nhỏ đã ham đọc sách, nhiều khi hỏi vua cha những điều nhà vua rất tâm đắc, đã vậy tính tình lại khoan hoà, tác phong thư thái, ai cũng mến.

Sau lễ đăng quang, Túc Tông nói với hai anh và các em:

- Mong hai anh hiểu cho, em đâu muốn thế này nhưng vua cha đã truyền chỉ, em không dám trái lời. Âu cũng vì non sông xã tắc mà thôi. Em còn ít tuổi, học hành chưa nhiều, nay lại lên ngôi vội vã, có gì mong hai anh chỉ bảo và các em hết lòng giúp đỡ.

An vương Tuân khẽ nhếch mép cười. Uy vương Tuấn lạnh lùng gật đầu. Ninh vương Trị, Ân vương Mỹ, Thông vương Dung thản nhiên như những người ngoài cuộc. Túc Tông thong thả bước tới ngai vàng và ban lệnh thiết triều, đặt niên hiệu là Thái Trinh.

 

Ngay sau buổi thiết triều, quan Thái sử Lê Hy tới phủ An vương. Xét về gia tộc Lê Hy còn là bậc cha chú của anh em An vương, lại trực tính nên ông không cần loanh quanh, bảo thẳng: “Ngôi vua đáng lẽ thuộc về ngài nhưng chính ngài đã để mất bởi lúc bé bất hiếu, tính tình lại nóng nảy! Lúc vua Thái Trinh đăng quang, tôi thấy ngài lộ rõ vẻ bất bình. Bất bình thì ngài làm được gì? Điều đó và cái tính nóng nảy chỉ có hại cho ngài nên ngài cần phải thay đổi nếu như muốn được yên ổn”. An vương ngẫm nghĩ thấy có lý, từ đó hết lòng chăm sóc mẹ để chuộc lỗi, tính nết cũng dần dần thay đổi, đặc biệt, nghĩ mình là con trưởng dễ bị hiềm nghi nên tìm mọi cách giấu mình, thường lấy câu cá, đánh cờ làm vui.

 

Mấy tháng sau, việc cúng giỗ đã ổn, vua sai Nguyễn Bảo Khuê làm chánh sứ mang biểu cầu phong sang nhà Minh, đem theo vật phẩm gồm 800 tấm đoạn vân rồng do nữ tì trong cung dệt, 70 bộ bát đĩa Bát Tràng, 1000 cân các đồ kim khí, 5000 chiếc quạt lụa làng Trúc, trân châu: 50 hạt lớn bằng hạt táo, 25 hạt lớn bằng hạt mận, 10 hạt lớn bằng hạt mít, 5 hạt lớn bằng quả cà. Đã vào mùa đông nhưng trời chỉ dịu mát chứ chưa chưa lạnh vì vậy người ngựa sung sức, đi không biết mệt, chẳng mấy chốc đã tới vùng biên ải. Lúc này trời chưa tối nên vẫn có thể đi tiếp nhưng để sang nước người cho thật chững chạc, đàng hoàng, đoàn sứ thần quyết định lưu lại đình trạm nghỉ ngơi lấy sức.

 

Hôm sau Bảo Khuê khăn áo chỉnh tề giục mọi người lên đường từ rất sớm, đi được chừng nửa dặm thì nghe thấy phía sau có tiếng vó ngựa dồn dập và tiếng người kỵ sĩ: “Sứ thần hãy dừng lại!”. Bảo Khuê quay nhìn, chẳng rõ người mà cũng chẳng rõ ngựa, chỉ thấy trên đường bụi mù một đám và ngọn cờ lông công oằn oại bay trên đám bụi. Bảo Khuê và đoàn đi sứ dừng lại.

 

Người nọ đến nơi. Hoá ra Đô lực sĩ Lê Kỳ. Hai bên chưa kịp chào hỏi thì con ngựa của Lê Kỳ bỗng khuỵu hai chân trước kéo theo người lăn xuống đất. Con ngựa dãy dãy vài cái rồi bất động, mép sùi bọt trắng, đứt ruột chết. Bảo Khuê bỗng nổi gai khắp người, Lê Kỳ là Đô lực sĩ hầu cận của nhà vua, đi gấp như thế này chắc triều đình có chuyện chẳng lành! Lê Kỳ bị ngựa đè lên chân, mọi người phải xúm vào, mãi mới gỡ ra nổi. Y tay chỉ ra sau lưng mình, nơi có cuộn vải lụa màu vàng, vừa thở vừa nói:

 

- Nhà vua mất rồi!

- Sao? - Bảo Khuê lạc cả giọng - Hoàng thượng băng rồi sao?

Nguyễn Bảo Khuê và đoàn tháp tùng gỡ cuộn vải trên lưng viên Đô lực sĩ. Trong cuộn vải có hai tờ biểu, biểu thứ nhất báo tang với nhà Minh về việc Đại Việt trong vòng sáu tháng, mất liền hai vua; biểu thứ hai xin nhà Minh phong cho vua kế vị là Uy vương Lê Tuấn.

Bảo Khuê thở dài nói với Lê Kỳ:

 

- Việc đã thế này, cũng không có gì phải vội. Ông cũng đã mệt, ta vào căn nhà dưới chân núi kia nghỉ, ăn miếng trầu uống bát nước. Tôi muốn nghe đầu đuôi sự việc.

- Tôi cũng gần kiệt sức rồi! Việc này phải người khác có khi đã không xong. Ông xem, con ngựa mệt đến đứt hơi mà chết! Cờ quạt cũng tơi tả cả ra! Suốt đêm qua tôi đã vượt không biết bao nhiêu cung đường để cố đuổi kịp ông!

 

- May mà chiều qua tôi chưa qua ải ngay. Không hiểu linh tính thế nào tự nhiên bụng lại bảo dạ nên nghỉ ngơi để lúc qua ải thần sắc được sáng sủa mà giữ lấy thể diện quốc gia.

- Ông nhớ cho, mai này về kinh tâu với nhà vua, phải lưu ý đến công sức tôi đấy.

- Nghĩ thương cho tiên đế lên ngôi mới được nửa năm, lại không có con kế vị nên phải truyền ngôi lại cho anh mình. Nhưng mà...

- Sao?

- ... à không, không có gì! – Bảo Khuê kịp nhớ ra Lê Kỳ vốn là gia nhân phủ Uy vương Tuấn.

Họ vào ngôi nhà dưới chân núi. Ngôi nhà lúp xúp, tối tăm nên lúc mới vào không nhìn rõ vật gì ra vật gì. Một con vật không hiểu từ đâu bỗng vụt qua mặt đám khách rồi tót lên xà nhà khèng khẹc kêu làm ai cũng giật mình. Mãi mới nhìn ra là con khỉ. Lê Kỳ văng một câu chửi tục. Chủ nhà thấy người của triều đình thì cuống cả lên. Nhà lại chặt chội, có mỗi cái chõng tre dành cho khách nên Bảo Khuê và Lê Kỳ ngồi chõng còn những người khác, vạ vật ngoài hiên, đầu hồi, bậu cửa. Viên sứ thần hỏi nước chè tươi, gã Đô lực sĩ đòi rượu. Y bảo nơi đây có thứ rượu cất từ nước lấy trên Mẫu Sơn ngon tuyệt. Chủ nhà nói lúc này không thể có nổi thứ rượu ấy, ngay thứ khác cũng khó kiếm vì vùng này nhà cửa thưa thớt, hiện trong nhà chỉ sẵn có rượu hoẵng. Lê Kỳ bĩu môi chê rượu hoẵng đã đục lại nhạt và chua, nhưng méo mó có hơn không, chẳng có rượu nào khác, đành rượu ấy vậy.

 

Con khỉ nhìn Lê Kỳ ngửa cổ dốc bát rượu vào họng, rít lên kheng khéc rồi gãi tay gãi chân rối rít.

Bảo Khuê băn khoăn nghĩ, tiên đế mới 17 tuổi, chưa có con để truyền ngôi đã đành nhưng sao lại chỉ định Uy vương? Nếu muốn Uy vương trị vì thì ngày trước Hiến Tông đã chọn Uy vương rồi.

Sau tợp rượu, Lê Kỳ khà khà khoái trá, bảo:

 

- Ông biết không? Đoán chuyện kế vị sẽ rắc rối nên khi chỉ định Uy vương, tiên đế phải nói: “Con trưởng của Hiến Tông là An vương lâu nay tuy đã thay đổi tính nết nhưng có ý xa lánh triều chính, vì thế không nên kế lập. Các con khác là Trị, Mỹ, Dung đều tuổi còn trẻ khó cáng đáng nổi việc nước. Chỉ có con thứ hai của Hiến Tông là Uy vương Tuấn, tức Huyên năm nay 17 tuổi, là người hiền minh nhân hiếu, có thể nối ngôi đại thống. Nếu thân vương nào tiếm ngôi trời thì người trong nước giết đi!”.

Bảo Khuê chợt lạnh toát người. May mà lúc nãy ông kịp bỏ dở câu nói, nếu không có khi đã nguy. Ông thấy lo khi ngôi báu vào tay Uy vương. Bảo Uy vương hiền minh nhân hiếu chỉ là nói cho đẹp. Bảo Khuê nhớ có một lần cùng đi săn với Uy vương, chỉ vì con chó để sổng mất con thỏ mà Uy vương tức khí đánh con chó đến chết! Bảo Khuê nhớ mãi khi bắt gặp cái nhìn của con chó lúc ấy, nó như van nài, như ân hận với chủ rằng đã để con thỏ chạy thoát. Bảo Khuê quay mặt đi không dám nhìn con chó trong khi Uy vương vừa dánh vừa chửi vừa trừng mắt khiến con chó chịu chết mà không dám kêu lấy một tiếng!

 

Vua Thánh Tông có 14 hoàng tử và 20 công chúa. Huy Gia hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng sinh ra Hiến Tông. Sau khi Thánh Tông mất, bà tới điện Trường Lạc để ở nên gọi là Trường Lạc Hoàng thái hậu. Hiến Tông mất, Túc Tông tôn bà làm Thái hoàng thái hậu. Túc Tông mất, Nguyễn Kính phi và nội thần là Nguyễn Như Vĩ muốn theo chiếu chỉ lập Uy vương Tuấn lên ngôi. Trường Lạc Thái hoàng thái hậu và các đại thần là Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật mấy chục người lại muốn lập Lã Côi vương vì cho rằng mẹ đẻ của Uy vương vốn con nhà hèn hạ.

 

Chuyện Chiêu phi, mẹ của Uy vương Tuấn triều đình ai cũng biết. Hồi năm Hồng Đức đời vua Thánh Tông, ở làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc có thiếu nữ tên là Nguyễn Thị Cận, mồ côi cha từ nhỏ, nhà lại nghèo nên phải tự bán mình cho một người ở phủ Phụng Thiên chốn kinh thành. Sau vì nhà người ấy có tội bị xử chết nên Nguyễn Thị Cận bị sung làm nô tì nhà nước, do đó được đưa vào hầu Quản Ninh hoàng hậu. Khi ấy Hiến Tông còn làm Thái tử, thấy nàng có sắc đẹp bèn lấy làm phi, sau này lên ngôi phong là Chiêu Nhân nên thường gọi là Chiêu phi. Sau Chiêu phi sinh ra Lê Tuấn. Hồi ấy Hiến Tông đang sức thanh niên nên rất khoẻ và hay đòi hỏi. Quan nội thị Nguyễn Khắc Hài vốn là người bà con với Bảo Khuê có lần xa xôi nói với Bảo Khuê rằng cung nữ vào hầu Hiến Tông sáng ra ai cũng rũ như tàu lá héo, có người Khắc Hài phải đỡ mới đi nổi! Cho nên chẳng lấy làm lạ khi Chiêu phi vừa mới hồi sức sau khi sinh nở Hiến Tông đã đòi vào hầu nên đến nỗi lâm bệnh rồi mất. Lê Tuấn được giao cho Kính phi nuôi. Tính khí Uy vương Tuấn thất thường một phần cũng vì vậy. Tình cảnh Uy vương kể cũng đáng thương nhưng để làm vua thì sao Trường Lạc Thái hoàng Thái hậu không khỏi băn khoăn. Khi sắp mất Hiến Tông nắm tay mẹ, khóc mà không nói, chắc đã linh cảm điều gì đó và muốn gửi gắm niềm tin vào bà.

 

- Ông biết không? - Lê Kỳ chợt đấm đánh rình xuống chõng làm mấy bát rượu nghiêng đổ cả, con khỉ đang trên xà nhà giật mình tí rơi xuống đất, nó vừa bám lấy xà nhà, đu đưa vừa rít lên khèng khẹc vẻ tức tối. Sau một tợp rượu, Lê Kỳ nói tiếp: - Trên đời này cứ phải mưu mẹo! Ông biết đấy, hồi Trường Lạc còn gọi là Huy Gia, mặc dù là người vợ được Thánh Tông yêu quý nhất, nhưng mấy lần nhà vua định phong làm Hoàng hậu mà không dám vì họ Nguyễn ở Tống Sơn của bà ấy thế lực rất mạnh, sợ các tần thiếp vì thế mà ngại bà ta, không ai dám gần vua; lại sợ họ hàng bà ấy cậy quyền thế mà lộng hành nên lại thôi. Chính vì vậy, khi thấy Trường Lạc muốn lập Lã Côi vương, Kính phi và nội thần Nguyễn Nhữ Vi phải vờ theo lệnh, nói dối để lừa cho bà ta ra đón Lã Côi vương. Bà ta đi rồi, Nhữ Vi mới đóng cửa thành lại, mời các công khanh đại thần tới, giơ di chúc của Túc Tông ra cho tất cả xem và lập Uy vương lên ngôi. Trường Lạc về thấy chuyện đã rồi bực lắm nhưng không làm sai được! Cho nên lên ngôi rồi, nhà vua giết hết đám Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật mấy chục tên cho hả giận và ngăn ngừa hậu hoạ. Lã Côi vương với cả bà Trường Lạc cũng không giữ nổi mạng! Có khó gì đâu, bảo kẻ hầu người hạ bằng cách nào cho bà ta ngủ một giấc không bao giờ dậy là xong. Đáng đời mưu đàn bà, đã chẳng được lại chuốc vạ vào thân!

 

Nguyễn Bảo Khuê không còn tin vào tai mình nên hỏi lại. Lê Kỳ nói lớn:

- Nhà vua giết cả Thái hoàng Thái hậu, ông nghe rõ chưa?

- Giết cả bà nội mình! - Bảo Khuê nhắc lại như trong mê sảng. Ngay cả đám hạ dân tầm thường cũng không kẻ nào làm thế nữa là một đấng quân vương! Hoạ chăng chỉ loài cầm thú. Bảo Khuê nghĩ vậy.

Lê Kỳ rũ áo vươn vai, vặn mình đứng dậy, xương cốt kêu lục cục:

- Rượu quả là thuốc thánh, có mấy bát thôi mà hết cả mệt... Cái bà Trường Lạc cũng có tốt đẹp gì đâu! Ông Vũ Quỳnh, Tu soạn ở Quốc sử viện có lần phàn nàn với tôi: Vua Thánh Tông vì nhiều phi tần quá nên mắc bệnh nặng. Huy Gia hoàng hậu ngày trước được vua yêu chiều nhưng về sau không được nhòm ngó đến nên sinh ra oán giận. Tới khi Thánh Tông ốm nặng mới được đến hầu bệnh, không hiểu bà ta có bôi độc dược gì vào tay không mà sờ vào chỗ lở trên người vua lại làm cho lở loét thêm vì vậy bệnh càng trầm trọng. Ông Quỳnh hỏi tôi có nên viết chuyện ấy vào sử hay không. Thái sử Lê Hy nói có thế nào viết thế ấy, đấy là việc của người chép sử. Tôi bảo cứ viết cho thiên hạ biết bà Trường Lạc là người như thế nào! Vua Thánh Tông là vị thánh sống, chuyện lắm cung tần cũng không thể làm đời sau nhìn nhà vua khác đi, vả lại đấy cũng là chuyện để răn đời nói chung... Thôi, hết rượu, tôi với ông chia tay, tôi còn phải đến đình trạm kiếm ngựa cưỡi về đây!

 

Rượu hết, chè cũng đã nhạt, chuyện càng không thể tiếp tục nên mỗi người một ngả. Trong lúc Bảo Khuê đầy vẻ đăm chiêu thì Lê Kỳ vui vẻ, hào hứng ra mặt. Con khỉ từ trong nhà bỗng lao theo Lê Kỳ, nhảy chồm chồm trên mặt đất, rít lên: “Giết cả bà nội! Giết cả bà nội!”. Tất cả đều nghe thấy và cùng kinh ngạc. Chủ nhà sụp xuống chân Bảo Khuê vái như vái giời:

- Xin đại quan tha tội chết! Con khỉ nhà con chưa bao giờ thế! Sao nó lại nói được tiếng người, con cũng không hiểu!

Chủ nhà chưa dứt câu đã thấy con khỉ thoăn thoắt trèo lên cây cao, kêu đúng năm tiếng lảnh lót như vượn hót rồi lao đầu xuống đám đá tai mèo dưới đất, chết phọt óc. Chủ nhà kinh hãi đến nỗi cứ há hốc mồm mà nhìn, chẳng nói được câu nào. Viên sứ thần và đoàn tháp tùng cũng sững như trời trồng một lúc lâu. Nguyễn Bảo Khuê bỗng sực nhớ ra điều gì, nói với viên phó sứ:

- Tôi nhớ nhà vua hình như tuổi thân.

- Ông hỏi vua mới hay vua cũ? Nếu vua mới thì đúng thế. Sinh ngày 5 tháng 5 năm Mậu Thân, tôi biết rõ vì... Chuyện dài lắm, lúc nào tôi sẽ kể.

Bảo Khuê không để ý lắm đến câu của viên phó sứ, ông đang mải nghĩ. Nhà vua sinh ngày 5 tháng 5, tuổi thân, con khỉ lại kêu 5 tiếng rồi tự hành mình mà chết. Điềm gì đây?

 

*

Lúc con khỉ ở Lạng Nguyên gieo mình xuống đất cũng là lúc ở kinh đô vua Uy Mục đang ngủ bỗng hét lên một tiếng và bừng tỉnh. Cung nữ nằm bên bị tiếng hét làm giật mình choàng mở mắt, ngơ ngác:

- Bệ hạ làm sao vậy?

- Ta vừa mơ... Ta mơ thấy ta bị giết! Ngươi định giết ta có phải không?

- Bệ hạ chỉ đùa thiếp, làm thiếp sợ! Hôm qua bệ hạ đã nói một câu làm thiếp hết hồn!

- Ta nói gì? à, ta kể cho ngươi nghe chuyện Hiếu Vũ đế đời Tấn bên Bắc quốc chỉ vì một câu nói đùa mà chết, phải không?

Nhà vua kể: Tối ấy Tấn Hiếu Vũ đế uống quá nhiều rượu, vì say nên nhà vua nói đùa Trương Quý nhân rằng: “ Khanh thế mà cũng đã gần 30 tuổi rồi. Cung phi ở tuổi khanh đáng lẽ đã bị phế bỏ! Ta có hàng nghìn phi tần, thiếu gì người trẻ đẹp, ta sẽ đi tìm người khác.”. Nói xong nhà vua lăn ra ngủ. Trương Quý nhân nghe, thấy mủi lòng và lo sợ, càng nghĩ càng bực và giận Hiếu Vũ đế, trong chốc lát bỗng trở nên độc ác bèn vẫy mấy cung nữ đến, bọn này vốn tức vì Hiếu Vũ không ngó ngàng gì đến chúng, bèn dùng chăn gối cùng nhau đè Hiếu Vũ đế đến ngạt thở mà chết.

Uy Mục bảo:

- Ta mơ đúng như chuyện của Hiếu Vũ đế và người giết ta là nàng. May mà ta tỉnh ngủ không có thì thật chả biết chừng!

Người cung nữ run lên vì sợ. Cùng lúc đó, mấy hoạn quan vào cung, Phụng Nghi Thái giám Nguyễn Khắc Hài thưa:

- Tâu Hoàng thượng, đã tới giờ thiết triều, các quan đại thần đã đến đủ, đang chờ ở điện Thị Triều.

- Ra nói với họ hôm nay ta mệt nên cho bãi triều... Nghe ta dặn này: Ta không như cha ta, từ rày trở đi đưa cung nữ đến đây ngươi không được để ai mặc xống áo, họ có rét thì cuốn họ trong chăn đem đến. Bên Bắc quốc bao đời nay đều làm thế, đề phòng cung nữ thủ vũ khí mà hại nhà vua. Tất nhiên đàn bà bên ấy có khác bên ta, ai cũng có thể trở thành Lã hậu, Võ hậu với Trương Quý nhân. Nhưng cứ phải đề phòng, nghe chưa? Ta biết có nhiều kẻ mưu hại ta! Chính con yêu nữ này, lúc nãy ta mơ thấy nó giết ta! Tại sao ta mơ lại không mơ gì khác, không mơ ai? Chẳng phải vô cớ đâu. Đây là trời báo mộng cho ta phòng trước. Có khi nó là người của bà Trường Lạc chả biết chừng. Vì vậy hãy cho nó theo hầu bà ta để tránh hậu hoạ!

Đám hoạn quan lôi cung nữ khỏi giường, ngấu nghiến mặc váy áo cho rồi lôi ra ngoài trong tiếng kêu khóc thảm thiết, chưa đầy nửa giờ sau Khắc Hài đã dâng Uy Mục chiếc mâm trên đó là đầu người cung nữ!

 

------------------------------------------------

(*) Các miếu hiệu Thái Tổ, Thái Tông, Hiến Tông... đều được triều đình đặt sau khi vua mất, ở đây nhiều chỗ chúng tôi gọi khi các vua còn sống cốt để bạn đọc dễ theo dõi. Khi vua còn sống, thường dùng niên hiệu để gọi ( Hiến Tông: Cảnh Thống. Túc Tông: Thái Trinh, Uy Mục: Đoan Khánh, Tương Dực: Hồng Thuận, Chiêu Tông: Quang Thiệu, Cung Hoàng: Thống Nguyên).

Viết bình luận