Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung-Phần 2
Biển sầm tối. Gió chuyển mạnh, sóng hết đợt này đến đợt khác tới tấp đánh vào mạn thuyền, chiếc thuyền chẳng khác gì cái vỏ trấu trong bão táp. Ba anh em Mạc Đăng Dung phải bám chặt vào những vật cố định trên thuyền để khỏi bị sóng cuốn xuống biển; bám vào bất cứ thứ gì có thể được ngay bên cạnh mình, với sự gắng sức hết mức vì sóng gió quăng quật đã không cho phép họ lựa chọn.
Đăng Dung bám vào trụ cần lái, Mạc Đốc, Mạc Quyết bám vào cọc chèo hai bên mạn. Họ đưa thuyền vào bờ bằng tất cả sức lực, kinh nghiệm và linh cảm chứ không còn biết đâu là phía biển, đâu là phía đất liền nữa. Lúc đầu còn nhận ra mấy chiếc thuyền đằng trước, bên cạnh, đằng sau, rồi tất cả bị xoá sạch, không hiểu chúng bị trộn lẫn với sóng gió và mưa mù trời hay đã chìm. Nước mưa nước biển quất vào mặt rát rạt. Xót không thể mở được mắt. Gào lên, thét lên cũng không còn nghe rõ tiếng của chính mình. Đăng Dung ghì cần lái bằng hai tay, bằng cả bụng, đôi chân bấm chặt xuống sàn, vậy mà mấy lần còn bị sóng hất nghiêng ngả, nếu không bám vào trụ có khi đã bị cuốn xuống biển. Đăng Dung không lo cho mình, chỉ lo cho hai em, chúng đã không dạn dày với biển mà còn yếu hơn chàng. Đăng Dung cố hét thật to vừa để nhắc hai em vừa để các em biết mình vẫn vững tay lái. Đáp lại chỉ tiếng gió gào và tiếng sóng gầm! Mặc dù không nhìn thấy gì cả, không nghe thấy gì cả, Đăng Dung vẫn tin rằng thuyền đang hướng về phía đất liền nên sống chết cũng giữ lái như hướng đã định, nếu không, thuyền sẽ lạc vào vùng tâm bão, gió sẽ giật cực mạnh, sẽ xoay con thuyền như quay một cái chong chóng và cuốn cả thuyền lẫn người xuống biển sâu hun hút; không thế thì thuyền cũng bị một con sóng lừng bất thần nào đó tung lên rồi bẻ gãy làm đôi dễ như người ta bẻ bánh đa. Phía trước, Mạc Đốc, Mạc Quyết cũng cố vững chèo dù hai cánh tay chỉ muốn rã ra. May sao bão đang theo hướng Tây, thẳng vào đất liền, chỉ có điều gió không đẩy thuyền về phía trước mà như muốn cuốn lấy thuyền, bốc nó lên, xoay tít và quăng đi. Thuyền đang như lên cơn co giật bỗng nhiên khựng lại, đột ngột đến mức cả ba anh em Mạc Đăng Dung đều chúi về phía trước, tưởng muốn văng ra khỏi thuyền. Cùng lúc đó một con sóng lớn chồm lên trùm lấy thuyền. Người nào người nấy tối tăm mặt mũi. Nhưng Đăng Dung hiểu rằng sóng đã đưa thuyền lên bãi cát, anh em họ đã được chính ngọn sóng dữ cứu thoát. Việc tiếp theo là đưa thuyền sâu vào trong bãi, nếu không nước lên và trời chuyển gió sẽ cuốn con thuyền trở lại biển. Đăng Dung nắm lấy dây chão lôi thuyền còn hai em đẩy sau. Xong xuôi, họ cột thuyền vào một gốc cây đã bị bão quật đổ nằm ngay bên cạnh thuyền. Bây giờ mới dám ngồi nghỉ.
Mưa vẫn vuốt mặt không kịp, ngoài khơi mù mịt, chỉ có sóng và gió.
- Bão khiếp thật! - Đăng Dung nói - Hai em có ai việc gì không? Anh bị cần lái đập vào vai nhưng may không sao cả.
- Em tưởng anh em mình phen này chầu hà bá! - Mạc Quyết bảo - Anh Dung giữa tay lái giỏi thật đấy. Sao anh biết hướng nào là bờ? Em thấy trời đất quay cuồng, đâu cũng chỉ biển và gió, chẳng biết đằng nào mà lần!
Đăng Dung đứng dậy bảo:
- Thôi, ba anh em mình thu cá rồi về kẻo ở nhà mong.
Họ thu lưới. Cá bị cuốn xuống biển mất khá nhiều, số còn lại bị sóng đánh vung vãi khắp nơi nên việc nhặt nhạnh gom vào thúng mất khá nhiều thời gian. Mưa vẫn không ngớt, gió rít như điên như cuồng, sóng chồm chồm tung bọt trắng ào lên bãi biển. Dọc đường về, anh em Mạc Đăng Dung gặp không biết bao nhiêu người trong làng đội gió đội mưa chạy ra phía biển trong tâm trạng vô cùng hoảng hốt, họ là những người có người thân đi biển chưa thấy trở về.
Các cụ già trong vùng bảo từ bé đến giờ mới thấy trận bão mạnh đến vậy. Bằng chứng là tảng đá to như cót thóc ở bến Mục còn bị sóng đưa khỏi chỗ cũ, những hòn đá nhỏ hơn từ chỗ này bị đem đi chỗ khác thì không biết bao nhiêu mà kể. Đâu đâu cũng thấy nói đến thuyền đắm, dân chài bị sóng cuốn, nhà cửa bị đổ, người chết.
Thấy anh em Mạc Đăng Dung về thoát, cả nhà ai cũng mừng.
Trong lúc Mạc Đốc, Mạc Quyết mệt quá, sau khi cơm nước xong, ngủ ngay từ chập tối thì Mạc Đăng Dung đốt đuốc đi thăm hỏi các nhà có người thân đi biển. Gió lặng, bão yếu dần, đây đó chỉ còn tiếng khóc. Trời cũng dần trong trở lại, những vì sao hiện lên, lấp lánh trong đêm thẳm như trước đấy đất trời yên ả không bằng! Cái đẹp này tàn nhẫn làm sao! - Đăng Dung nghĩ trên dọc đường tới các nhà. Vùng này rộng, dân cư thưa thớt, các nhà cách nhau khá xa nên phải đến sáng Đăng Dung mới đi hết các nhà, cứ nhà nào còn thức và có tiếng khóc thì vào.
Dọc đường về, Đăng Dung tạt ra bãi biển xem chiếc thuyền của mình bị bão gió thế nào vì hôm qua còn chưa kịp xem xét kỹ. Đang lúc ấy có một cô gái từ mạn Tây đi tới, thấy Đăng Dung, cô ngượng ngập kéo hai bên khăn mỏ quạ che đôi má đang đỏ rậng lên, đồng thời ấp chiếc nón khoác ở tay vào ngực, đầu cúi nhưng mắt lại bẽn lẽn ngước nhìn Đăng Dung:
chào anh! - Cô gái nhỏ nhẻ.
- Ô cô Toản! Cô đi đâu sớm thế?
- Hôm qua em thăm dì em bị ốm, bão gió không về được, thành thử... Anh cũng đi đâu sớm vậy?
- Hôm qua anh em tôi ở biển về, đưa tạm thuyền lên bãi, bây giờ ra xem thế nào.
- Thế có sao không anh?
- Cám ơn cô, may là không sao cả. Lâu nay tôi thất lễ không sang hầu chuyện thầy, thế thầy, cô và các em có khoẻ không?
- Thầy mẹ em vẫn khoẻ. Bao giờ anh sang Trà Phương qua nhà em chơi. Thầy mẹ em vẫn nhắc đến anh đấy.
- Được, nhất định sẽ tôi sang. Cho tôi gửi lời hỏi thăm thầy, cô!
Toản đi rồi, Đăng Dung bâng khuâng nhìn theo.
Họ biết nhau từ một hội hát đêm trung thu và cũng nhờ viên quan phủ mê hát. Quan vốn người bên Sơn Nam mới về đây nhậm chức, là cháu gọi Trạng nguyên Lương Thế Vinh bằng bác. Cũng như quan Trạng, ông họ Lương này mê hát chèo như điếu đổ, đi làm quan nơi đâu cũng không quên mang theo cuốn sách Hý phường phả lục của ông bác. Nhậm chức ở phủ này, thấy cảnh đẹp ông liền cho mở hội, chỉ sau có hai hội đến hội thứ ba chẳng phải mời phải gọi, còn chưa tối thuyền nọ thuyền kia đã nối đuôi nhau từ các nơi nườm nượp tới đầm cửa phủ. Từ Văn Lan, Lan Liễu xuôi sông Cửu Biều (sông Đa Độ), từ mạn Đông ngược sông He, sông Họng. Đầm vốn là khúc sông cũ của sông Đa Độ. Sông đổi dòng để lại đầm nước lớn, dân chúng lại khơi con kênh nhỏ cho thông với sông thành thử thuyền từ sông vào đầm và từ đầm ra sông đều dễ dàng. Đầm rộng mênh mông, từ bờ này nhìn sang bờ kia hút cả tầm mắt nên hôm hội thuyền nọ thuyền kia có nhiều mấy cũng không lo không có chỗ. Chỗ này đám thuyền làng Du Lễ, chỗ kia đám Tú Đôi, chỗ nọ thì Phương Đôi, Trà Phương... Thực ra người xem thì nhiều chứ người hát không mấy, vì mỗi làng chỉ được phép có một thuyền, mỗi thuyền năm người, năm nay năm người nữ thì năm sau năm người nam. Khác hẳn hằng ngày lam lũ, trai giờ đây áo the khăn xếp, gái áo mớ bảy mớ ba. Khi tiếng loa vang lên: “Loa! Loa! Loa!/ Đến giờ vào hội/ Làng trên xóm dưới/ Xin mời hát ca/ Loa! Loa! Loa!” thì các thuyền, cứ thuyền nam làng này lại ra hát với thuyền nữ làng kia. Hết đêm này qua đêm khác, từ mồng mười đến hai mươi tháng Tám, gần như trọn tiết trung thu. Đêm ấy đêm rằm, ánh trăng trải khắp khiến đầm nước vùng cửa phủ như được tráng một lớp bạc còn núi Chè núi Đối thì huyền ảo như cõi tiên.
Gọi núi Chè là theo cách gọi nôm na dân dã bởi tên chữ của núi là Trà Sơn. Nếu như những vườn chè của làng Trà Phương cho thứ chè có hương thơm đặc biệt thì chè trên núi Chè lại thêm vị đượm khác thường. Người các nơi đến hát hoặc nghe hát vì thế không ai là không la cà hàng quán với những bát nước chè vàng sánh như mật ong. Đêm đó thuyền nữ làng Trà Phương hát với thuyền nam Cổ Trai. Cả ba anh em Đăng Dung đều thích hát chèo hát đúm nhưng hát ở hội lớn như hội trung thu này chỉ Đăng Dung mới dám vì phải nhanh trí mới hòng đối lại được các cô gái làng bên. Đăng Dung trong bụng cũng lo vì nghe nói bên Trà Phương có cô Toản đã hát hay lại giỏi ứng biến. Đăng Dung nghĩ cách phải làm cho cô nàng hoảng đã rồi mới hát nên đẩy sào cho thuyền mình lao như tên về phía thuyền Trà Phương. Đúng lúc các cô gái Trà Phương dúm cả lại vì sợ hai thuyền đâm vào nhau vào nhau thì thuyền Cổ Trai dừng sững lại, chỉ còn cách thuyền Trà Phương chưa đầy hai gang tay!
Phải khéo mới làm được như thế bởi đà thuyền lao chả thể nào biết trước. Đăng Dung lớn tiếng: “Nghe đồn bên ấy có người/ Tên là Ngọc Toản vậy thời người đâu?”. Ghét cái kiểu đùa kinh người lúc nãy nhưng khi mời trầu, giọng cô Toản vẫn ngọt ngào: “Gặp đây ăn một miếng trầu/ Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng”. Đăng Dung đáp lại: “Không đi thì hội không đông/ Đi thì trầu vỏ cho lòng thêm mong”. Toản lại hát: “Nhớ mong xe sợi chỉ hồng/ Trói người quân tử vào trong khuôn giời/ Bao giờ quân tử có lời/ Thì em mới mở khuôn giời cho ra”. Đăng Dung không chịu thua: “Đêm nay rồi sáng mai ra/ Lọng vàng chẳng tiếc bằng ta tiếc mình/ Chỉ hồng em buộc thì đành/ Anh xin một phép ở trong khuôn giời!”. Cô Toản được thể: “Đã đi đến hội thì chơi/ Chẳng sợ ai cười chẳng sợ ai chê/ Nào, cho mãn hội thì về/ Mẹ mắng cũng mặc chồng chê cũng đành!”. Đăng Dung chưng hửng, cô ấy có chồng rồi sao? Thấy Đăng Dung không đối lại được một người trong thuyền ra đỡ lời, phía thuyền bên kia Toản cũng lui vào khoang, nhường cho chị em khác. Đám bạn đấm lưng Toản thùm thụm, rúc rích cười: “Chết mày nhá! Trông người ta đang ngẩn ngơ ra kìa!”. “Kệ! Cho bõ ghét!” - Cô Toản nói.
Họ biết nhau từ đấy, ít lâu sau mấy anh em Đăng Dung sang bên Trà Phương xin thụ giáo một thầy đồ, không ngờ lại đúng nhà cô Toản. Toản hát bỡn vậy chứ đâu đã có chồng! Mà bây giờ lại cứ như một cô Toản khác với hôm hội: Không hề đáo để, mà chỉ thấy những nét chân chất của người hay lam hay làm nhưng lại đầy vẻ người quý phái, đôn hậu, nền nã.
... Chia tay Toản, về đến nhà, thấy nhà đang có khách. Đó là Nguyễn Bỉnh Đức, bạn học ngày trước, còn người kia thì chưa biết là ai.
- Anh Dung ạ, hôm qua bão gió, tôi lo cho mấy anh em nhà anh quá! - Bỉnh Đức nói, giọng hồ hởi. - Còn đây là anh Lê Bá Ly, nghe tôi nói về anh, anh ấy cứ muốn tôi đưa lại chỗ anh.
Bá Ly kinh ngạc nhìn Đăng Dung. Bá Ly hỏi giờ sinh tháng đẻ của Đăng Dung rồi cứ thế bấm đốt ngón tay tính toán trong sự ngạc nhiên, tò mò và chờ đợi của tất cả mọi người. Một lúc sau Bá Ly trầm trồ:
- Quý tướng! Quý tướng! Sinh giờ ngọ, ngày Nhâm Tý, tháng Đinh Dậu, năm Quý Mão, thật quý tướng! Phải nói đại quý tướng mới phải.
- Tý, ngọ, mão, dậu, tứ hành xung, còn hay ho gì nữa.- Mạc Đăng Dung cười, bảo.
- Nhưng đinh, nhâm, quý anh có cả! Mặt vuông, mắt tròn, vai ngang, tướng anh là tướng võ. Anh cởi áo quay lưng lại đây tôi xem nào.
Mạc Đăng Dung làm theo. Bá Ly xoa vai Đăng Dung, mặt bỗng biến sắc.
- Sao? - Đăng Dung và ông thân sinh Mạc Hịch cùng hỏi.
- Thưa cụ với các anh, lạ lắm. Anh Dung ạ, tướng anh là tướng chọc trời khuấy nước! Đôi vai này có thể gánh vác cả sơn hà!
Mạc Đăng Dung cười:
- Tôi đâu có nhẽ thế. Ra sao thì cũng tại giời định thôi. Chỉ biết thầy đồ Trà Phương thường dạy anh em chúng tôi rằng con người ta không nên yên phận; kẻ đại trượng phu hơn người là biết ứng biết biến. Nhưng mà thôi, anh em ta gặp nhau đây, được ăn với nhau miếng trầu, uống với nhau bát nước, chén rượu thế là vui rồi. Anh Bỉnh Đức ạ, tôi vừa gặp cô Toản ngoài bến. Lại nhớ thuở tôi với anh đèn sách theo thầy rồi vì nghèo khó tôi phải bỏ dở nghiệp văn, chữ nghĩa đâm ra lõm bõm.
Nguyễn Bỉnh Đức bảo:
- Văn hay võ đều căn bản như nhau. Anh Bá Ly đây dù theo nghiệp văn nhưng lại lấy văn làm võ, chí hướng học đòi Gia Cát Lượng. Còn như các quân vương đời Trần nước ta ngày trước lại lấy võ làm văn. Chẳng giấu gì các anh tôi cũng muốn lấy võ làm văn như tiền nhân thời Đông A. - Bỉnh Đức uống một hơi cạn chén rượu rồi cao giọng ngâm: “ Đoạt sóc Chương Dương độ/ Cầm hồ Hàm Tử quan”. Chà! Thơ Chiêu Minh vương Trần Quang Khải sao mà hào sảng! Trước tiên mạn phép cụ rồi đến anh Bá Ly nhiều tuổi hơn cả trong anh em chúng ta, sau nữa đến anh Đăng Dung cùng em Đốc em Quyết, tôi mới làm được hai câu thơ, xin đọc cùng nghe: “Hàn giang ngư hấp nguyệt/ Cổ luỹ điểu minh sương”.
Nguyễn Bỉnh Đức cười ha hả, ngất ngư, có vẻ say. Lê Bá Ly bảo:
- Thơ hay lắm. “Sông lạnh cá đớp trăng, luỹ cổ chim kêu sương”. Qua thơ thấy cái chí của anh Bỉnh Đức cũng cao vời lắm. - Bá Ly quay sang Đăng Dung: - Tôi nghe anh Bỉnh Đức nói anh côn quyền, đao cung giỏi lắm. Tôi cũng có quen Vũ Hộ, anh ấy khen anh giỏi vật; nhưng cũng tiếc cho anh vì nhà nghèo nên vừa chân lấm tay bùn, vừa phải chuyển văn sang võ, đi đấu vật lấy giải để sinh sống, chứ anh dòng dõi nho gia họ Mạc đất Lũng Động, nếu cứ chuyên nghề cử nghiệp, nhất định không hổ danh con cháu Lưỡng quốc Trạng nguyên. Tôi thì nghĩ thế này: Đừng có quá trọng văn khinh võ. Chỉ có điều người côn quyền đao cung giỏi lắm cũng chỉ địch nổi trăm người, thông thạo binh thư mới địch nổi vạn người.
Mạc Đăng Dung bảo:
- Trời phú cho tôi sức khoẻ, côn quyền, đao cung, võ vật cũng gọi là tạm. Nhưng đúng như anh Bá Ly vừa nói, giỏi mấy thứ đó cũng chỉ là kẻ võ biền nên tôi hằng ngày vẫn đọc sách, hiềm là chưa có cuốn nào thật vừa ý và cũng sinh nhiều thắc mắc: Khổng Tử, Mạnh Tử dạy nhiều điều hay nhưng không phải đều đúng cả. Thuyết pháp trị của Quản Trọng, Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương ưởng và nhất là Hàn Phi Tử rất hay nhưng không có vua chúa nào theo được bền bỉ. Vậy là do đâu?
Đăng Dung trầm ngâm rồi nói tiếp:
- Anh vừa nhắc đến Vũ Hộ làm tôi lại nhớ một lần gánh cá đi bán thì gặp một tay người to lớn đang thách vật ngay giữa chợ. Hắn treo giải năm tấm lụa và mười quan tiền nếu ai thắng hắn. Cũng dăm ba người cả gan nhưng chả ai chịu nổi một keo! Tôi tò mò vào xem rồi đã định mặc kệ vì vội vào chợ thì chính hắn ta túm tay giật lại, bảo tôi trông to xác thế kia, sao không đọ sức với hắn. Tôi không ham giải nhưng thấy hắn ngông nghênh thì tức, với lại cũng định thử sức xem sao nên nhận đấu. Hắn quả là ghê gớm, keo vật thực gay go. Tôi khoẻ hơn nhưng các miếng đánh hắn sành hơn. Mình vốn là dân quê, có được đi đâu mà học hỏi! Người xem mỗi lúc một đổ đến cơ man mà kể, tiếng hò reo vang trời, trống đành tức ngực. Rồi tôi nhận ra hắn xoay xở chậm nên quyết định không dùng sức mà vận dụng khéo léo. Nhưng cũng phải đến keo thứ năm hay thứ sáu gì đó mới hạ được hắn. Mọi người xúm đến mừng cho tôi. Tôi định đi thì hắn và người nữa kéo vào quán uống rượu. Hắn xưng tên là Đào Cứ, còn người kia hoá ra Vũ Hộ. Tôi với anh Vũ Hộ vốn biết nhau từ trước vì anh ấy người làng Cung Hiệp. Từ Cung Hiệp xuôi sông Cửu Biền tới làng tôi cũng chẳng bao xa. Vì lâu không gặp nhau nên lúc này tôi mới biết anh Vũ Hộ là người nhà của Giản Tu công. Anh ấy và Đào Cứ nói Giản Tu công đang noi theo Mạnh Thường Quân ngày xưa, chiêu mộ hiền tài, muốn tôi theo Giản Tu công. Tôi từ chối, bảo chỉ là dân thuyền chài, đâu dám bén mảng tới chốn lầu son gác tía. Thực ra, thấy Đào Cứ ăn nói trịch thượng, cử chỉ lỗ mãng, nhìn người bằng nửa con mắt nên tôi ngại. Đã vào nơi cửa quyền lại gặp người như thế tôi không muốn.
Lê Bá Ly vân vê chén rượu trong tay, vẻ đăm chiêu. Lâu nay ở kinh đô xì xầm chuyện Giản Tu công Lê Oánh chiêu mộ gia nô, bây giờ nghe Đăng Dung nói càng rõ. Chưa bước vào nhà Giản Tu công chưa biết hay dở thế nào, Bá Ly chỉ nhắc lại lời của chính Đăng Dung rằng con người ta không nên yên phận, thời thế tạo anh hùng. Xưa Lưu Bang nhà Hán xuất thân là anh Đình trưởng, Chu Nguyên Chương nhà Minh mồ côi cha mẹ, phải vào chùa xin làm chú tiểu để kiếm miếng ăn; nước ta thì tổ tiên nhà Trần cũng nối đời làm nghề đánh cá! Đăng Dung lại vốn dòng dõi nho gia và có quý tướng, không nên để lỡ cơ hội, bỏ phí tài năng mà giam chân mãi ở chốn quê mùa này, sắp tới triều đình mở khoa thi tiến sĩ võ, anh em Đăng Dung nên đi thi. Năm trước thi ở trấn phủ, nếu trúng cách, năm sau lên kinh đô thi Hội, thi Đình. Bỉnh Đức cũng khuyên thế và cho biết năm nay bốn vệ binh Cẩm Y, Thiên Vũ, Thiên Bồng, Vũ Lâm đều cử những kẻ rất mạnh ra ứng thí, quyết giành ngôi Đô lực sĩ.
Đăng Dung bảo hai em cùng tạ Bá Ly và Bỉnh Đức:
- Chúng tôi xin nghe theo hai anh, sau này nên người quyết không quên ơn lời khuyên bảo chí tình chí nghĩa của hai anh.
Nguyễn Bỉnh Đức hứa hai tháng nữa sẽ quay lại, đem đến cho anh em Đăng Dung mấy con ngựa tốt.
Mấy cô em gái Đăng Dung thảy đều ít tuổi mà lại tinh nghịch, cứ đẩy người chị lớn là Ngọc Phong ra mặt sắp cơm, mời khách. Chẳng hiểu vô tình hay hữu ý mà cái nhìn của Bá Ly lại bắt gặp ánh mắt của cô nàng khiến cô nàng như chạm phải lửa, thẹn quá, bỏ chạy vào nhà trong, đấm lưng các em thùm thụp rồi xấu hổ chúi đầu vào lòng mẹ, phụng phịu.
Ở gian giữa, những người đàn ông rượu vào râm ran cười nói.
Trên đường về, Nguyễn Bỉnh Đức hỏi Lê Bá Ly tại sao lúc coi tướng mạo cho Mạc Đăng Dung, Bá Ly lại bảo Đăng Dung cởi áo để xem lưng. Chưa thấy thầy bói thầy tướng nào lại đi xem lưng!
- Có đấy! Để xem nốt ruồi. Nghe bảo vai bên tả vua Lê Thái Tổ có bảy nốt ruồi. Vai Đăng Dung không thế nhưng cũng là đôi vai lạ, chưa thấy một ai như thế, vì xương vai liền thẳng. Đôi vai ấy có thể gánh vác cả giang sơn xã tắc!
Họ không ai nói gì nữa, mỗi người đeo đuổi một ý nghĩ, cho tới bến đò thì chia tay.
*
Viết bình luận