Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung Phần 2 (tiếp)

Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung Phần 2 (tiếp)

Thi văn chương cử tử đều đặn ba năm một khoa. Thi tiến sĩ võ không thế, chỉ tổ chức khi triều đình thấy cần tuyển Đô lực sĩ. Khoa tiến sĩ võ lần này cách lần trước những 9 năm. Chọn Đô lực sĩ cũng quy củ như chọn tiến sĩ văn khoa, chỉ khác lính tráng cũng được ứng thí. Năm trước, bốn trấn binh các xứ Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc và bốn vệ Thiên Vũ, Thiên Bồng, Vũ Lâm, Cẩm Y mỗi nơi chọn lấy mười người trong số lính ứng thí; gia nô các vương công mỗi nhà một người; thường dân dự sát hạch từ phủ huyện lên đến trấn rồi mỗi trấn chọn lấy năm người, riêng Thanh Hoa là đất căn bản của triều đình thì được mười người. Đầu tháng Ba năm sau, lúc tiết trời thuận tiện, bớt rét mà cũng chưa nóng, tất cả lên kinh đô thi thố. Cả thảy khoảng hơn trăm người. Nhà vua sẽ chọn những người mạnh nhất sung vào đạo Túc vệ ỳa Cấm binh, đủ bù cho số lính không còn đủ sức khoẻ bị thải ra, hoặc về các vệ, các đạo hoặc cho hồi hương, để bao giờ đạo Túc vệ cũng toàn lính tráng trẻ trung, khoẻ mạnh, đao cung võ bị đều giỏi. Trong số các lực sĩ trúng tuyển thì những người xuất sắc gọi là Đô lực sĩ xuất thân, ngang hàng như Đồng tiến sĩ xuất thân bên văn chương, trong đó đỗ đầu là Đô đầu Đại lực sĩ, ba người tiếp theo là Đại lực sĩ, cũng vinh hạnh như các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp bên văn khoa.

Từ khi gặp Lê Bá Ly và Nguyễn Bỉnh Đức, anh em Mạc Đăng Dung quyết tâm luyện tập. Đăng Dung thuê thợ rèn tạo cho mình chiếc đao nặng hơn 42 cân (*), Mạc Đốc thanh kích, Mạc Quyết ngọn thương.

Hai tháng sau, một người bán ngựa xưng tên là Nguyễn Hậu dẫn theo năm con ngựa tới Cổ Trai. Sau tuần trà, người bán ngựa nói:

- Tôi đến đây theo lời anh Nguyễn Bỉnh Đức. Đáng lẽ anh ấy cùng đi nhưng đột xuất bận việc nên đi chỉ có mình tôi. Trại ngựa của chúng tôi dưới chân núi phía Đông Bắc dãy Tam Đảo, xứ Tam Đới. Sở dĩ chọn chỗ ấy làm trại là để ngựa quen với mưa gió, rét mướt và muông thú. Sáng thúc ngựa lên núi, đến chiều thì lùa xuống núi, nhờ vậy chúng leo dốc mà không bị mệt xuống dốc mà không bị ngã, lại quen với gai góc bụi rậm và muông thú. Ai tinh ra có thể thấy ngựa của trại tôi khác với nhiều giống ngựa khác.

- Anh em chúng tôi chỉ quen với sông nước, cá mú, về ngựa thú thật không biết.

- Ngựa này là ngựa ta lai với ngựa Mông Cổ. Trước đây, khi quân Nguyên vào nước ta, chúng đem theo rất nhiều ngựa vì kỵ binh là sở trường của chúng. Khi chúng thất trận, chiến mã bị ta bắt rất nhiều, một số thì chạy vào rừng trở thành ngựa hoang. Số ngựa hoang quanh Tam Đảo đến hàng mấy trăm con. Tôi mới thả đám ngựa cái của trại vào rừng để lai giống với đám ngựa ấy. Gọi là ngựa Mông Cổ chứ thực ra còn có cả ngựa Thổ Phồn, Đại Lý. Giống ngựa càng được lai hỗn tạp càng khoẻ. Năm con tôi dẫn theo đây đều là tuấn mã, các anh chọn lấy ba con, một con tôi sang Lê Xá bán cho ông Phạm Gia Mô, một con để tôi cưỡi về.

 

Mạc Đốc hỏi:

- Thầy đồ Trà Phương dạy chúng tôi câu của Trang Tử, đại ý: Người ta sống trong khoảng trời đất cũng giống như bóng bạch câu lướt qua cửa sổ, trong chốc lát mà thôi! Bóng bạch câu là bóng ngựa trắng phải không?

Nguyễn Hậu bảo:

- Đúng thế, nên trong chữ “câu” có chữ “mã”. Chính xác hơn thì bạch câu là ngựa non, bởi ngựa non cũng tính như trẻ con ham chạy, chẳng yên lúc nào, vụt cái chỗ này vụt cái chỗ khác nên mới được ví như thời gian qua mau. Người phương Bắc gọi ngựa là mã, thố, câu, đôi khi còn gọi là long. Người cưỡi ngựa theo hầu vua ngoài Phò mã còn có Ngự câu vương là bởi vậy. Căn cứ vào màu lông thì có xích là ngựa đỏ, như Quan Vân Trường đời Tam Quốc có con xích thố; ô và ly là đen, Hạng Vũ có con ô truy; bạch là trắng; tinh và hồng là ngựa hồng; nê là ngựa trắng khoang đen; thông là ngựa xanh, ta thường gọi là màu xám hay màu gio; phiêu là ngựa xanh chấm trắng toàn thân, nên Phiêu kỵ tướng quân là phải cưỡi ngựa phiêu; lạc là ngựa vằn, giống này rất hiếm nên chỉ dành cho người tước vương và vị ấy được gọi là Lạc mã thiên lý vương.

 

Người bán ngựa dẫn anh em Đăng Dung tới trước mấy con ngựa:

- Tôi có bán cho Cù Khắc Xương ở vệ Thiên Bồng con bạch xích long, con này dưới nắng lông ánh lên màu đỏ rực, riêng trán lại có vệt trắng. Khắc Xương giới thiệu Đàm Cử cũng ở vệ Thiên Bồng tới mua của tôi con ly câu đen bóng như than. Ngoài ra tôi còn bán cho Nguyễn Kính ở Sơn Tây con ô câu. Kỳ thi tiến sĩ võ lần này có thể ba anh được gặp Cù Khắc Xương và Đàm Cử. Nguyễn Kính cũng muốn đi thi lắm nhưng còn quá trẻ nên ông cụ thân sinh không cho đi, sợ do bồng bột, hiếu thắng mà kinh suất.

Người bán ngựa vỗ lưng, vuốt trán từng con ngựa:

- Con này là con nê thông vì lông nó màu gio, đã vậy lại đốm đen trắng. Lông như vậy rất hiếm, xưa vua Duệ Tông nhà Trần đi đánh Chiêm Thành cũng cưỡi một con nê thông. Con này là con ly đề, nó đặc sắc ở móng chân như móng chân thú, tính nó có phần hung dữ, khoẻ và chạy nhanh. Còn đây là con song vĩ xích, đuôi toẽ hai bên, xưa Lý Thường Kiệt đời Lý có một con song vĩ tinh. Con này là bạch mã. Giống bạch mã khó kiếm không chỉ vì đẹp do toàn thân trắng như tuyết mà bởi tính khí ôn hoà nhưng dạn dĩ, không sợ tiếng động, tiếng gào thét, tiếng voi rống, tiếng hí của ngựa khác, không sợ tiếng va chạm của binh khí, lại mến chủ và có nghĩa với chủ, không nhanh không dữ như con ly đề nhưng sức dẻo dai lại hơn hẳn. Vì vậy các hoàng đế Bắc quốc khi cần đều dùng bạch mã. Tuy nhiên đừng lầm với loại bạch mã đến cả móng chân cũng trắng, loại này cực hiếm, cực quý nhưng không dùng để cưỡi và càng không dùng làm chiến mã được vì thực ra nó bị bệnh bạch tạng, cũng như người bạch tạng nó cứ gặp nắng là quáng. Nhưng xương đem nấu cao thì cho loại cao quý, gọi là cao bạch mã. Còn con ô truy này thì đáng được gọi là ngựa ký ngựa kỳ, ngựa thiên lý, ngày chạy ngàn dặm không biết mệt. Xưa vua Nhân Tông nhà Trần từng ví Đỗ Khắc Chung như con ngựa kỳ ngựa ký trong đám toàn là ngựa kéo xe muối.

Đăng Dung trầm trồ:

- Thật anh em chúng tôi không biết chọn con nào vì nghe phân tích thấy con nào cũng hay!

- Ngựa hay còn bởi có hợp với chủ không, lại còn do khí số thời vận của chủ còn hay hết. Xưa Lưu Bị được người ta tặng con Đích lư, có người khuyên không nên dùng vì nó có tướng hại chủ nhưng chính con Đích lư ấy lại cứu Lưu Bị nhảy qua suối thoát chết. Còn như Xích thố là con ngựa hay, từng giúp Quan Công nhanh chóng giết được Nhan Lương, Văn Sú rồi qua năm cửa quan chém sáu tướng nhưng sau cũng không giúp được ngài thoát khỏi bị quân Ngô bắt sống.- Nguyễn Hậu ngẫm nghĩ rồi bảo - Theo tôi thì, anh Dung nên dùng con bạch mã, anh Đốc có vẻ hợp với con ly đề, anh Quyết con song vĩ xích. Tôi giữ con nê thông, còn sẽ bán cho anh Nguyễn Như Quế ở Đại Trà gần đây con ô truy.

- Chúng tôi có biết Nguyễn Như Quế. – Mạc Đốc nói – Còn như đặt tên cho chúng, tiện thể cũng xin nhờ tiên sinh giúp.

- Việc này không thể vội vàng được. Ngoài con Nê Thông của vua Duệ Tông nhà Trần, sử sách nước ta còn nhắc đến các con Phúc Thông, Cát Thông, An Tường Ký, Thần Lương Câu, Phúc Lưu, Cát Lưu, Thiên Mã, ba anh em nên dựa vào đó mà đặt tên sao cho con vật mang lại điều tốt lành cho người là được.

Ba anh em Đăng Dung cùng cảm tạ Nguyễn Hậu.

Sáng nào ba anh em Đăng Dung cũng dậy sớm, chạy từ nhà đến đền Mõ rồi từ đó chạy về. Đền Mõ có cây gạo hơn hai trăm tuổi thân to, ngọn cao ngất trời. Họ quăng dây lên cành cây gần nhất rồi bám leo lên chỉ bằng tay còn chân thì thả thõng, leo lên leo xuống hàng chục lần. Những ngày chài lưới trên biển đã luyện gân cốt họ. Về nhà, lúc này mới ăn lót dạ, nghỉ ngơi chút đỉnh rồi tập các môn côn, quyền, đao, kiếm, cung, nỏ. Tất cả đều thành thạo, chỉ có bắn cung là xem ra còn non, nhất là bắn trên lưng ngựa. Muốn đỗ Đô đầu Đại lực sĩ trong trận chung kết phải hơn hẳn đối thủ một môn, môn kia cũng chỉ được phép kém tí chút. Mạc Đăng Dung không giấu giếm khát vọng giành ngôi Đô đầu Đại lực sĩ.

Chẳng mấy chốc đã đến các kỳ thi ở trấn. Ba anh em Đăng Dung vượt qua thi Hạch và cả thi Hương không khó khăn gì. Chỉ có điều Mạc Đốc bị sái vai trong lần thi Hương, cái vai cứ thỉnh thoảng lại đau nên lo không lên kinh đô thi Hội được.

Trước ngày lên đường một tháng, ba anh em đi Đồ Sơn để cầu thần Điểm Tước đại vương phù hộ. Thần là thượng đẳng thần, thành hoàng của cả vùng, thiêng lắm, những người đi biển quanh vùng không năm nào không đến đền lễ thần.

Truyền thuyết kể rằng người Đồ Sơn từ lâu đã làm nghề đánh cá nên muốn lập ngôi đền để tế thần, cầu mong cho họ được xuôi chèo mát mái. Một ngư phủ cao niên đêm nọ mơ thấy thuỷ thần hiện lên bảo sáng sớm hôm sau hãy tới chân núi Tháp, sẽ thấy điều linh nghiệm. Ông lão làm y như vậy thì thấy một đàn chim quần lượn trên một vùng đất dưới chân núi. Nghĩ ứng với điềm trong mộng, ông lão nói với dân làng lập đền ở chỗ đất ấy. Dựng đền xong thì lại đến chuyện tên hiệu của thần, biết gọi thần thế nào cho nghiệm. Ông lão lại bàn với dân làng lập đàn cúng tế để cầu thần cho biết tên hiệu, sau một tuần trăng, đến ngày cuối cùng thì đặt trên nền đền mâm bột gạo, nếu thần linh thiêng có về ắt phải để lại dấu chân. Mọi người làm y như thế, cúng tế xong cứ để mở cửa đền và ra về, ai cũng thấp thỏm cầu mong suốt đêm. Quả nhiên sáng hôm sau ra đền thì thấy mâm bột hiện rõ vết chân chim sẻ, do vậy biết tên hiệu của thần là Điểm Tước. Dân chài từ đó đi biển phần nào được yên ổn, chỉ còn lo nỗi thuỷ quái; thì một đêm mưa to gió lớn, biển nổi sóng ầm ầm mãi đến sáng mới yên, cũng lúc đó dưới chân núi Tháp, cách đền thần Điểm Tước không xa, biển dạt vào xác một con cá lớn trông rất dữ tợn, trên mình đầy vết chân chim cào, cổ họng như bị chim rỉa; đến chiều thì mối xông đùn đất lấp kín xác con cá làm thành một gò đất lớn, dân chúng gọi là Mả Cá. Mọi người đoán rằng đêm qua thần Điểm Tước đã diệt thuỷ quái trừ hoạ cho họ. Từ đó thần Điểm Tước trở thành vị thần hùng trấn cả một vùng biển rộng.

Ba anh em Mạc Đăng Dung đi từ lúc còn tối trời nên tới sông Họng mới tờ mờ sáng. Qua sông là tới ngay sườn phía Tây chân núi Tháp, địa đầu của dãy Cửu Long Sơn.

Từ ngoài biển nhìn vào mới thấy rõ Cửu Long Sơn vươn dài, không khác gì con rồng nhấp nhô uốn chín khúc hướng về phía biển. Mỗi núi lại có tên riêng, từ khi vua Thánh Tông nhà Lý xây tháp Tường Long trên đỉnh núi địa đầu, núi ấy mới gọi là núi Tháp. Tháp cao chín tầng khi mờ khi tỏ ẩn hiện trong sương núi và mây mù. Đền thờ Điểm tước đại vương cũng dưới chân núi Tháp nhưng ở sườn phía Đông. Đường sang bên ấy xuyên qua rừng bằng lối mòn, lá rừng loà xoà và phải vượt qua một cái dốc lớn, chính là dốc Mả Cá. Sang bên sườn Đông, đường có quang quẻ hơn, những gốc đa cổ thụ nhiều không biết bao nhiêu mà kể, cành rễ giao nhau rậm rịt; cứ thế len men đi dưới chân núi thì tới đền thờ thần. Cầu khấn xong, ba anh em lại tới suối Ngọc để tìm đường lên tháp Tường Long. Cách đây hơn 400 năm, vào năm Long Thuỵ Thái Bình thứ tư (1085), vua thứ ba nhà Lý là Thánh Tông trong một lần ngự giá qua cửa biển Ba Lộ thấy dãy Cửu Long hiện ra phía xa trông thật hùng vĩ, bèn cho dựng trên ngọn Long Sơn ngôi tháp chín tầng để thờ Phật. Một đêm tại kinh thành, nhà vua mơ thấy rồng hiện liền ban cho tháp tên hiệu là Tường Long để ghi lại điềm lành.

Đường lên đỉnh núi khá vất vả, đủ biết người xưa gian nan ra sao khi xây tháp. Đỉnh núi chỗ xây tháp khá bằng phẳng. Tháp cao chín tầng, đỉnh tháp vút lên tưởng muốn vươn tận trời xanh.

Anh em Mạc Đăng Dung ngắm biển trời mãi không biết chán. Biển ở tít dưới kia, mây lại ngay trên đầu, khăn áo tung bay trong gió lộng. Sảng khoái quá, Mạc Đốc, Mạc Quyết bảo nhau cùng hét lên một tiếng rồi cười ha hả. Họ vẫn còn tính trẻ con.

Chuyến đi của anh em Mạc Đăng Dung chiếm trọn một ngày.

Thấm thoát đã đến ngày lên đường. Cuối cùng, Mạc Đốc vai vẫn đau nên đành bỏ thi Hội, nhưng “cờ ngoài bài trong” nên vẫn theo lên kinh để xem có gì thì mách giúp .

Cây gạo đền Mõ sắp đến kỳ trổ hoa, đây đó trên cành đã lấm tấm những nụ non mỡ màng. Ngày trảy kinh, dân làng đưa tiễn, người dọc đường trong huyện nghe tin cũng đổ ra đường, ai nấy đều mong anh em Mạc Đăng Dung mang vinh hạnh về cho quê hương. Xúc động nhất là khi qua làng Trà Phương, cả thầy đồ thuở trước dạy anh em họ cũng đón đường đưa tiễn. Cô Toản, con ông, biết mình là phận gái nên chỉ dám đứng ở xa ngấp nghé, nhớn nhác trông đến tội.

Một đám trẻ con đông tới hơn chục đứa bảo nhau chạy trước dẹp đường, cứ gặp đàn bà con gái chúng lại bảo họ về ngay nhà. Cũng vì vậy bến đò Sáu tịnh không một bóng váy yếm! Ông lão chở đò còn không cho bất kỳ ai sang sông, dành riêng một chuyến cho anh em Đăng Dung. Thuyền ra xa, những người trên bến còn đứng nhìn theo vẫy tay không dứt. Đăng Dung bảo Mạc Quyết: “Anh em mình phen này có công thành danh toại cũng không quên tình nghĩa xóm làng!”.

Bên kia sông đã là địa hạt huyện Tân Minh. Thuyền vừa cập bến, một phụ nữ từ sau đê đi lên. Ông lái đò giật mình, cứ như chết sững. Biết ý, Đăng Dung bảo:

- Ông ơi, không sao đâu, chả nhẽ tránh các bà các cô suốt dọc đường được hay sao!

Người phụ nữ xuống bến. Khi đã rõ người, ông lái đò bỗng trở nên niềm nở và kính trọng:

- Chị Thục! Chị đi đâu sớm vậy?

- Chào cụ... - Người phụ nữ đáp một cách kiêu kỳ nhưng rồi kinh ngạc khi để ý đến Mạc Đăng Dung.

Thấy vậy, Mạc Quyết khẽ hích anh một cái. Thấy ông lão lái đò rạp mình khúm núm khi bước qua mặt người phụ nữ, Đăng Dung biết đó không phải là người bình thường. Tiễn anh em Đăng Dung lên tận bờ đê, ông lão nói: “Đấy là nhà chị Thục, con gái quan Nhữ Thượng thư”. Nhữ Thị Thục, con quan Hộ bộ Thượng thư Nhữ Văn Lan, tiếng nghe đã lâu bây giờ mới giáp mặt - Đăng Dung nghĩ - Thảo nào kiêu kỳ thế không biết!

Nhữ nương quả thật là người kiêu kỳ. Nhưng đó là với người khác, vào lúc khác, bởi lúc này đây nàng đã mất hết sự tự chủ. Chờ ông lái đò trở lại, Nhữ nương hỏi lúc nãy trên đò là ai. Nghe ông lão nói, nàng bảo:

- Ông không biết đâu, tướng người ấy là tướng quân vương!

 

Nhữ nương ngẩn ngơ nhìn theo bóng Mạc Đăng Dung mãi, khiến ông lái đò không khỏi cười thầm trong bụng: Phải lòng mất rồi chị chàng ơi! Chả nhẽ tiếc vì đã có chồng, không thì sẽ lấy người ta hay sao? Đến gấp đôi tuổi người ta chứ ít à? Thảo nào cứ nghe thiên hạ nói chị ta lắm lúc như người cuồng!

Vị nữ cuồng thẫn thờ mãi đến khi đò cập bến. Ông lái đò nghĩ không sai. Kể gì tuổi tác! Nhữ nương tiếc mãi không được gặp Mạc Đăng Dung sớm. Nàng vốn thông thiên văn, tường địa lý nên ngay từ thời Hồng Đức thịnh trị của Lê Thánh Tông đã tiên đoán chỉ vài chục năm sau nữa nhà Lê sẽ hết số và họ khác sẽ lên, đồng thời chính vùng Hải Đông của nàng là nơi tàng ẩn vị đế vương khai sinh triều đại mới. Bao lâu nay nàng cố công tìm người ấy để kết duyên nhưng tìm mãi không thấy, đến khi ngấp nghé tuổi ba mươi mới chịu buông xuôi, nhận lấy ông Nguyễn Văn Định, sau khi xem tướng biết ông sau này sinh con đỗ Trạng (**). Bây giờ gặp Đăng Dung, Nhữ nương mới ân hận, lâu nay nàng cứ tìm người sẽ sinh ra vua ở đâu đâu vì nghĩ người ấy nếu không thuộc nòi danh gia vọng tộc thì cũng là bậc hàn sĩ hoặc thầy đồ thầy khoá, không ngờ hỏi ông lão lái đò mới biết gia đình Mạc Đăng Dung ba đời nay chưa một ai hiển đạt!

 

Viết bình luận