NGHI ÁI QUAN NGUYỄN THỊ DUỆ - HÌNH ẢNH CỦA MỘT NỮ GIÁO VIÊN DƯỚI THỜI PHONG KIẾN

Nguyễn Thị Duệ còn có tên Ngọc Hoàn, Nguyễn Du, hiệu là Diệu Huyền. Bà sinh ngày 13 tháng 3 năm 1573 trong một gia đình có truyền thống hiếu học và bản thân lại thông minh, nhan sắc hơn người nên từ nhỏ đã được gia đình kén thầy giỏi họ Cao dạy học.
Năm Quang Hưng thứ 15 - Mạc Bảo Định nguyên niên 1592, triều đình Lê - Trịnh thu phục Thăng Long, quân Mạc rút về phía Đông thuộc trấn Hải Dương. Đầu năm Quang Hưng thứ 16, quân Lê - Trịnh tấn công triệt hạ vùng Hải Dương, trọng tâm là Nam Sách, Chí Linh, nhà Mạc thất thủ phải chạy khỏi Hải Dương, chạy lên Cao Bằng, lập căn cứ tồn tại ở đây trên nửa thế kỷ.
Tại Cao Bằng, nhà Mạc mở khoa thi Hội, sĩ tử ứng thí khá đông. Nhưng, luật lệ đương thời không cho phép con gái được học hành thi cử vì vậy Nguyễn Thị Duệ cải trang giả trai để dự khoa thi Tiến sĩ năm Giáp Ngọ (1594) tại Cao Bằng và đã đỗ đầu, còn thầy dạy đỗ thứ hai. Ngợi khen người học trò tài năng, người thầy đã thốt lên: "Màu xanh từ màu lam mà ra, thế mà lại đẹp hơn màu lam".
Trong buổi triều đình ban yến, vua Mạc thấy thí sinh đỗ đầu kỳ thi Hội ấy có dáng vẻ thanh tú, môi son, mắt phượng sáng ngời bèn dò hỏi. Khi biết được sự thực vua Mạc không quở trách mà còn yêu quý lấy làm vợ, đặt biệt danh là Tinh phi (Sao Sa) cho Nguyễn Thị Duệ.
Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Bà vào rừng ẩn náu, bị quân lính của tướng tiên phong Đinh Văn Tả bắt được. Bà cầm gươm nói: "Các ngươi bắt được ta thì nên để ta đến gặp Chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự liệu". Nghe thế họ bèn giải bà về kinh đô Thăng Long. Vua Lê - Chúa Trịnh biết bà là người có tài lại có sắc, liền trọng dụng.
Tại hậu cung vương phủ thời ấy có lục viện gồm: Thượng mục viện (dạy đi đứng); Thượng dung viện (dạy trang điểm); Thượng hòa viện (dạy tính nết); Thượng trinh viện (dạy dáng điệu); Thượng văn viện (dạy học chữ) và Thượng đức viện (dạy lễ nghi) thì Dương Vương Trịnh Tạc đã tiến cử bà Nguyễn Thị Duệ làm Lễ sư, chuyên dạy các phi tần và phong là Chánh Vương Phủ, Nghi ái Quan.
Chúa Trịnh Tạc ban lệnh chỉ: tiền đóng góp về binh lính, tô thuế ruộng công, thuế đò thuế chợ cùng các thứ thuế khác thu ở quê đều để làm bổng lộc cho bà. Từ đó về sau, suốt 20 năm dân làng Kiệt Đặc không chỉ được miễn trừ sưu thuế, phu phen, tạp dịch mà còn được cấp 100 quan tiền và 2 mẫu ruộng tốt là bổng lộc của bà.
"Một tấm gương sáng chiếu suốt ba vua" (Lễ sư thông tuệ nhất kính chiếu tam vương). Cảm phục tài đức của nhau, Nghi ái Quan Nguyễn Thị Duệ và Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông) trở thành đôi bạn tri âm tri kỷ. Hằng tháng, hai bà cùng đi lễ chùa, vãn cảnh. Qua những cuộc đàm đạo với các sư sãi và những bậc hiền tài, "Bà Chúa Sao sa" Nguyễn Thị Duệ nắm được tình hình đất nước và đời sống của dân chúng, từ đó có được những kế sách hay cố vấn cho triều điều ban bố những cải cách hợp lòng dân.
Tuy ngôi cao lộc hậu nhưng Nghi ái Quan Nguyễn Thị Duệ sống rất thanh đạm, luôn dành sự quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài.
Phần lớn ở các kỳ thi Đình và thi Hội, bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Mỗi tháng 2 kỳ, bà sai người làm cỗ, họp sĩ tử hàng huyện lại cho tập làm văn. Đề bài do bà ra rồi sai người từ kinh đô mang về. Bài làm xong giao cho Hội Tư Văn niêm phong lại đem nộp cho bà. Tự bà chấm bài, đúng hạn trả lại và cho đăng tên những người có bài và điểm lên Văn chỉ. Nhiều người trong số đó đã đỗ Đại khoa, riêng làng Kiệt Đặc quê hương bà đã có 3 người đỗ Tiến sĩ. bà là người đầu tiên trong lịch sử giáo dục nước nhà, thực hiện dạy học từ xa mà sau 4 thế kỷ chúng ta mới kế thừa, phát huy.
Với mục đích khuyến học thành tài, trong số lộc điền dọc sông Kinh Thày, dân gian quen gọi là "Dải yếm bà Chúa Sao sa". Nghi án Quan Nguyễn Thị Duệ đã trích ra 10 mẫu để thưởng cho những tân Tiến sĩ của quê hương luân phiên cày cấy thu hoa lợi phục vụ việc học hành. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là "Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời".
Đặc biệt, trong kì thi tuyển Tiến sĩ khoa Tân Mùi, niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631) ở Thăng Long, bà được triều đình Lê - Trịnh mời vào ngôi vị Ban Giám khảo và được hậu thế đúc tượng đồng tại hậu cung Văn Miếu Mao Điền (Hải Dương).
inbound1943126303000850247.jpg
Nguồn ảnh: Lịch sử Việt Nam bằng tranh tập 42: Phân tranh Nam-Bắc triều và đoạn kết nhà Mạc ở Cao Bằng, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.71.
Tham khảo: Bài viết Các bà Chúa thời Lê - Trịnh với văn hóa Thăng Long của tác giả Trương Thị Kim Dung, trang 458 - 461.

Viết bình luận