NHÀ MẠC (1527-1592) VÀ THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG (1527-1529) TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC

NHÀ MC (1527-1592) VÀ THÁI T MC ĐĂNG DUNG (1527-1529) TRONG LCH S DÂN TC

Nhà Mạc, một triều đại phong kiến tồn tại 65 năm (1527-1592), một thời gian không dài trong lịch sử Việt Nam, (nếu kể cả thời gian tồn tại ở Cao Bằng, cộng lại là 159 năm). Nhưng cống hiến của họ Mạc vào lịch sử dân tộc không phải là nhỏ.

Tuy vậy, theo quan điểm phong kiến thì cũng như nhà Hồ, nhà Tây Sơn, vì đã lật đổ triều đại cũ, lập nên triều dại mới cho dòng họ mình, đều bị coi là “nhuận”, là “Nguỵ” (nhuận Hồ, nguỵ Mạc, nguỵ Tây Sơn).

Ngày nay, công cuộc đổi mới mà Đại Hội lần thứ VI của Đảng đề ra bắt đầu từ ‘Đổi mới tư duy”, cùng với phương châm khoa học: “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã giúp cho chúng ta có cách nhìn mới về các nhân vật lịch sử, trong đó có nhà Mạc và Mạc Đăng Dung.

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ MẠC.

Như chúng ta đã biết, xã hội phong kiến Việt Nam sang đầu thế kỷ XVI đã bắt đầu suy thoái.

Sự suy thoái cuối Lê đã mang đặc trưng thời đại- thời đại mà phương Tây đã bước vào thời kỳ Phục Hưng. Trên thế giới chủ nghĩa tư bản đã manh nha, nhất là ở Tây Âu. Ở phương Đông, kinh tế hàng hoá-tiền tệ cũng phát triển mạnh đẩy nhanh sự suy thoái của xã hội phong kiến. Quyền uy tối thượng của vua cũng như độc quyền phong kiến của một dòng họ không còn bền vững như trước nữa.

Trong lịch sử phương Đông cũng như phương Tây, khi chủ nghĩa tư bản chưa phát triển đến độ chín muồi để có thể thủ tiêu được chế độ phong kiến thống nhất thị trường tư bản chủ nghĩa thì sự chia rẽ, đối đầu giữa các thế lực phong kiến đã chịu ảnh hưởng của kinh tế hàng hoá-tiền tệ, thường đưa đến thoán đoạt ngôi vua, chia cắt lãnh thổ, phân phong cát cứ, phân chia quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến. Đó là sự vận động khách quan của xã hội xẩy ra ở nhiều nước. Thậm chí ở Đức một dân tộc phân chia ra nhiều công quốc.

Ở nước ta thời Lê mạt, từ Lê Uy Mục (1505-1509)… đến Lê Cung Hoàng (1527) kinh tế, văn hoá, xã hội. chính trị, quân sự ngày càng suy thoái, biểu hiện ra thành “khủng hoảng xã hội”. Sự nổi lên của các thế lực cát cứ: Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn…đã xảy ra trong tình hình như vây.

Với phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” chúng ta cũng phái xem xét nhà Mạc trong hiện trường xã hội đó. Bắt đầu là đi vào tìm hiểu cuộc “Khủng hoảng cung đình cuối Lê”.

II. KHỦNG HOẢNG XÃ HỘI CUỐI LÊ: MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG CUNG ĐÌNH TRẦM TRỌNG

Khủng hoảng cuối Lê, kể từ Lê Uy Mục (1505) trở đi đã có cơ sở sâu xa của nó là khủng hoảng kinh tế xã hội mang dấu ấn thời đại. Đó là mâu thuẫn giữa kinh tế phong kiến Việt Nam còn mang nặng tàn dư phương thức sản xuất châu Á với kinh tế hàng hoá tiền tệ đã có khả năng làm nảy sinh mầm mống tư bản chủ nghĩa.

Trong khi đó về chính trị, triều đình phong kiến lại không có được tư duy đổi mới, không sản sinh ra dược nhân tài cứu nước tìm ra được lối thoát cho cuộc khủng hoảng. Phần lớn vua quan đi vào xa hoa, truỵ lạc. Thế lực phong kiến chính thống là nhà Lê thì quá bạc nhược, suy đồi. Còn phong kiến ngoại tộc lại chia ra nhiều phe cánh ngang tài ngang sức nhau, không nhượng bộ lẫn nhau. Tất cả đều mưu đồ tranh giành quyền lực, lấn át nhà vua đi tới cướp ngôi vua.

Một cuộc khủng hoảng cung đình sâu sắc, lâu dài đã diễn ra.

Từ vua Uy Mục trở đi, cơ nghiệp nhà Lê mỗi ngày một suy dần, không có vua nào làm được việc nhân chính, lại thường hay say đắm tửu sắc, làm những điều tàn ác gây thành sự giặc giã, thoán đoạt.

Khủng hoảng cung đình diễn ra với một hình thái chưa từng có là 5 vua bị giết, hai vụ tiếm ngoi xưng vương, nhiều phe phái tiêu diệt lẫn nhau khiến sức lực suy tàn nhân tài cạn kiệt, quần chúng cực khổ.

Cụ thể diễn ra như sau:

1/ Năm 1504 vua Lê Hiến Tông mất. Ngôi truyền cho con thứ ba là Lê Túc Tông. Túc Tông làm vua được 6 tháng thì mất. Lê Uy Mục (con thứ hai Hiến Tông) lên thay (1505). Vừa lên ngôi đã giết ngay những người trước kia không suy tôn mình làm vua, kể cả tổ mẫu là Thái hoàng Thái hậu cùng với Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ và Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật. Uy Mục còn làm nhiều điều bạo ngược, lại say đắm tửu sắc, đêm nào cũng cùng với cung nhân uống rượu, rồi đến khi say thì giết đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau làm trò vui. Tính đã hung ác lại hay phản trắc (Sứ Tàu sang làm thơ, gọi là Quỷ vương..)

Năm 1509, Giản Tu Công, người anh em con chú con bác với vua bị bắt giam. Ông đã đứt tiền cho người canh ngục trốn ra được về Tây đô hội với các cựu thần đem binh ra đánh bắt Uy Mục và hoàng hậu giết đi.

2/ Giản Tu Công giết vua rồi lại tự lập làm vua là Lê Tương Dực, nhưng cũng chơi bời xa xỉ, như sai thợ Vũ Như Tô làm điện 100 nóc, xây Cửu trùng đài, bắt quân dân làm việc cực khổ, chết hại rất nhiều, hao tốn tiền của, lại cho đóng chiến thuyền bắt đàn bà chèo chơi ở hồ Tây, tư thông với cung nhân của tiền triều (Sứ Tàu coi vua là có tướng lợn, và sự loạn vong chắc là sắp tới).  Nông dân nổi lên chống lại ở nhiều nơi. Trần Cao uy hiếp cả kinh thành. Nguyên Quận công Trình Duy Sản đã có công đi đánh giặc nhưng vì can gián nhà vua bị đánh. Duy Sản tức giận hội cùng mấy viên quan khác, mượn tiếng đi đánh giặc, đêm đem binh vào giết vua Tương Dực.

3/ Trịnh Duy sản giết vua Tương Dực lập Quang Trị (con Mục Ý vương) mới 8 tuổi lên làm vua. Võ tá hầu Phùng Mại bàn nên lập con Cẩm Giang vương thì bị Trịnh Duy Sản bắt đem chém. Ngay ở chỗ nghị sự. Quang Trị làm vua được 3 ngày chưa kịp đổi niên hiệu thì bị Trịnh Duy Đại anh Trịnh Duy Sản bắt giết đi.

Trong lúc triều đình rối loạn như vậy thì Nguyễn Hoằng Dụ kéo quân về đốt phá kinh thành bắt Vũ Như Tô đem chém ở ngoại thành.

Trịnh Duy Sản lại phải lập Cẩm Giàng vương 14 tuổ lên làm vua là Lê Chiêu Tông. Kinh đô bị tàn phá nên vua tạm chạy về Tây kinh (Thanh Hoá). Kinh đô bỏ trống Trần Cao vào chiếm, tiếm hiệu xưng vương. Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ cùng một số quan quân đem binh đánh Trần Cao. Trần Cao thua chạy về Lạng Sơn. Trịnh Duy Sản đuổi đánh lên Lạng Sơn bị Trần Cao giết…

 4/ Chiêu Tông trẻ tuổi không quyết đoán. Triều đình rối loạn. Trịnh Duy Đại mưu sự làm phản bị tố cáo, phải giết cả đảng. Triều thần thì hiềm thù lẫn nhau, đem quân đánh lẫn nhau.

Nổi bật nhất là vụ Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy, hai người đi đánh giặc về rồi mỗi người đóng quân một nơi chống cự với nhau, vua can ngăn không được. Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh Nguyễn Hoằng Dụ. Hoằng Dụ bỏ chạy về Thanh Hoá. Vua sai Mạc Đăng Dung đi đánh Hoằng Dụ, nhưng Đăng Dung tiếp được thư của Hoằng Dụ viết riêng cho mình nên không đánh, đem quân trở về. Quyền bính trong triều ở cả tay Trần Chân.

Vua nghe nói Trần Chân có ý làm phản nên cho gọi vào thành bắt giết đi. Các bộ tướng của Trần Chân là Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đem quân vào đánh kinh thành. Vua phải chạy sang Gia Lâm cho người vào Thanh Hoá vời Hoằng Dụ, nhưng Dụ không ra. Chiêu Tông không trông cậy được vào ai phải cho người sang Hải Dương vời Mạc Đăng Dung vào giúp.

5/  Mạc Đăng Dung đem vua về Bồ Đề mật dụ cho Nguyễn Kính, Nguyễn Áng về hàng…Họ không hàng lại thông đồng với Trịnh Tuy, Nguyễn Sư-những người đang có âm mưu làm phản, đồng tìnhlập Lê Do lên làm vua đóng hành điện ở Từ Liêm.

Mạc Đăng Dung được vua Chiêu Tông vời ra giúp đã đem binh diệt được bọn Lê Do lại quy hàng được Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng.

Thấy Mạc Đăng Dung, nhờ thắng lợi gây được thanh thế, vua Chiêu Tông lo sợ bỏ hành cung chạy ra Sơn Tây cho người vào Thanh Hoá vời Trịnh Tuy ra ứng cứu. Trước tình thế đó, Mạc Đăng Dung phải hội các quan, lập Hoàng Đệ Xuân là Lê Cung Hoàng lên thay, di chuyển hành cung về Gia Phúc (sau là Gia Lộc, Hải dương) để tránh viện quân của Chiêu Tông từ Thanh Hoá đánh ra. Năm 1524 Mạc Đăng Dung buộc phải cho người đem quân vào Thanh Hoá bắt Chiêu Tông giết đi.

Đăng Dung giúp Lê Cung Hoàng củng cố triều chính. Nhưng khủng hoảng cung đình đã đến tột đỉnh. Ngôi chính thống của nhà Lê qua 4 đời vua (từ Uy Mục đến Chiêu Tông đều không cáng đáng được việc nước lại luôn giết hại công thần, hãm hại cả những người có công vì sợ mất ngôi. Trong tình hình đó, và cũng sau 3 năm (từ 1524 đến 1527) Mạc Đăng Dung quyết định giành ngôi.

Như vậy là khủng hoảng cung đình sâu sắc dẫn đến 5 vua bị giết (Uy Mục, Tương Dực, Quang Trị, Chiêu Tông, Cung Hoàng); hai lần thế lực chống đối lập ra vua mới (Trần Cao tiếm hiệu xưng vương. Lê Do được Trịnh Tuy, Nguyễn Sư lập lên làm vua). Triều thần thì những người hoài Lê nhưng bất lực, như Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Lương Đắc Bằng, xin cáo quan về hưu. Số còn ở lại, phe nọ chống phái kia, mà tất cả đều là kém tài, thiếu đức, giết hại lẫn nhau. Dân tình khổ cực. Binh sĩ nhiều người bỏ thân nơi chiến địa không vì lợi ích quốc gia.

 Trong lịch sử dân tộc cũng nhiều lần xẩy ra khủng hoảng cung đình như khủng hoảng cuối Tiền Lê sang Lý, khủng hoảng cuối Lý sang Trần, hay như “Loạn ba vương thời Lý”, việc tiếm ngôi của Dương Nhật Lễ cuối Trần…nhưng chưa bao giờ khủng hoảng lại diễn ra lâu dài và trầm trọng như lần này.

Lịch sử đang cần có một nhân vật ra giải quyết khủng hoảng để yên dân, dựng nước. Lịch sử chọn Mạc Đăng Dung.

Nói “Lịch sử đã lựa chọn” là nói thực tế khách quan đã có sự giằng co giữa các thế lực, mỗi thế lực có người đại diện của mình và đều là nhằm giành ngôi nhà Lê đang suy tàn, bất lực. Nhưng sau khi loại trừ lẫn nhau, cuộc “chung kết” chỉ còn lại có hai đối thủ là Nguyễn Hoằng Dụ và Mạc Đăng Dung. Cuối cùng Mạc Đăng Dung đã thắng, tức Mạc Đăng Dung đã được lịch sử lựa chọn.

III. VAI TRÒ MẠC ĐĂNG DUNG TRONG KHỦNG HOẢNG CUNG ĐÌNH

Nguyễn Hoằng Dụ và Mạc Đăng Dung đã có lần giao hảo với nhau (như trên đã nói: khi vua sai Đăng Dung đi đánh Nguyễn Hoằng Dụ. Hoằng Dụ đã viết thư riêng cho Đăng Dung cầu hoà. Đăng Dung không đi đánh nữa). Nhưng Hoằng Dụ, sau khi thua Trịnh Tuy và Trần Chân, đã bỏ chạy về giữ Thanh Hoá. Đến khi vua bị bọn Trần Chân chống lại, cho vời ra giúp, đã không ra. Lần thứ hai vua vời ra để cùng Mạc Đăng Dung đánh Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng… thì lại xuất binh đánh trước và thua trận, lui về Thanh Hoá. Như vậy đức, tài đã được thử thánh và biểu lộ rõ là Hoằng Dụ thua kém Mạc Đăng Dung.

Còn Mạc Đăng Dung khi được Chiêu Tông vời ra giúp đã ra ngay, được Chiêu Tông trao cả binh quyền để đánh Hoàng Duy Nhạc. Mạc Đăng Dung đã thắng trận, trừ được bọn Lê Do (tiếm hiệu xưng vua) cùng Trịnh Tuy, Nguyễn Sư, lại đã quy hàng được Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng… khiến vây cánh thêm mạnh.

 Tài quân sự của Mạc Đăng Dung như vậy là đã rõ. (Ông xuất thân từ nghề võ và không thấy nói trận nào bị thua.) Còn đức thì chí ít cũng nghe lời gọi của Chiêu Tông ra cứu vua, và lấy ân uy mà thu phục được Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng… Khi đưa Cung Hoàng lên ngôi đã cố gắng để gần ba năm vực lại ngôi vua của nhà Lê, nhưng thấy không thể vực dậy nổi mới quyết định giành ngôi.

Dẫu đức của ông chưa thể là toàn vẹn nhưng cũng là khá nhất trong số quyền thần lúc bấy giờ.

IV. MẤY NÉT LỚN VỀ THÂN THẾ SỰ NGHIỆP CỦA MẠC ĐĂNG DUNG

“Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời Mạc Đĩnh Chi. Ngày trước vốn ở làng Đông Cao, huyện Bình Hà, tỉnh Hải Dương, sau dời sang làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An.

Mạc Đăng Dung, thửa trẻ nhà nghèo làm nghề đánh cá, nhưng có sức mạnh, thi đỗ Đô lực sĩ, làm Đô chỉ huy sứ triều Lê Uy Mạc, đến triều Tương Dực được phong Vũ Xuyên bá, sau vua Chiêu Tông lại phong Vũ Xuyên hầu”(1).

Khi quyền bính đã về tay, Mạc Đăng Dung tất yếu phải trừ khử cả vua Cung Hoàng, Hoàng thái hậu và những quyền thần chống đối. Đó là việc mà trong xã hội phong kiến các phe phái mới nổi lên thường phải làm để củng cố địa vị của mình, như Trần Thủ Độ diệt tôn thất nhà Lý, Hồ Quý Ly diệt tôn thất nhà Trần.

Nhưng vẫn còn một bộ phân không nhỏ; “Thấy quyền lớn của họ Mạc cũng bỏ vua mà theo phò Mạc Đăng Dung”(2).. Họ theo có lẽ do nhận thức được tính hợp lý của nó chứ không phải còn hoài Lê.

Từ năm Giáp Thân 1524, sau khi giết Chiêu Tông lập Cung Hoàng, thì mãi đến năm Đinh Hợi (1527) Mạc Đăng Dung mới bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc…

Mạc Đăng Dung lên ngôi, khủng hoảng cung đình tạm thời được giải quyết, dẫn đến cục diện Nam Bắc (Lê và Mạc) phân tranh, tức “thời đại Nam Bắc triều” (Bắc: 1527-1593. Nam: 1533-1599).

Mạc Đăng Dung bắt chước nhà Trần làm vua 3 năm rồi truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, về Cổ Trai làm Thái Thượng Hoàng.

Nhà Mạc truyền ngôi được tất cả 5 đời (65 năm):

Thái Tổ Mạc Đăng Dung (1527-1529)

Thái Tông Mạc Đăng Doanh (1530-1540)

Hiến Tông Mạc Phúc Hải (1541-1546)

Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)

Mạc Mậu Hợp (1562-1592)(3).

Toàn bộ công tích của nhà Mạc cống hiến cho lịch sử dân tộc đã được sử sách ghi chép. Riêng công trạng của Mạc Đăng Dung có thể tóm tắt như sau:

Khi khủng hoảng cung đình diễn ra trầm trọng, triều chính đổ nát, kinh tế suy sụp, dân tình cực khổ, Mạc Đăng Dung đã dẹp được các phe phái phân chia, cát cứ, lên ngôi, tạo dựng được cơ nghiệp cho con cháu nối đời, góp phần ổn định đời sống  xã hội, xây dựng và phát triển được đất nước về mọi mặt: kinh tế, văn hoá, xã hội trong hơn nửa thế kỷ. Thành tựu của nhà Mạc không ai có thể phủ nhận được.

Xét về sự nghiệp dựng nước thì bao giờ cũng là “Vạn sự khởi đầu nan”- công lao đó thuộc về Mạc Đăng Dung.

Nhân dân ta, một khi đã thừa nhận là nhà Mạc có những cống hiến nhất định cho dân tộc thì không thể không thừa nhận công lao của Mạc Đăng Dung.

Riêng việc đầu hàng nhà Minh là việc làm đáng chê trách, nhưng lịch sử cũng để lại ít nhiều nghi vấn, nhất là việc cắt đất dâng cho nhà Minh. Các cuộc hội thảo khoa học gần đây cũng đã đặt ra vấn đề này ra trao đổi.

Nói tóm lại: Với 65 năm tồn tại và phát triển, nhà Mạc đã có cống hiến nhất định vào lịch sử dân tộc. Công lao dựng nghiệp của Mạc Đăng Dung đối với nhà Mạc là lớn lao và sự nghiệp dựng nước của nhà Mạc đã được sử sách ghi nhận. Hậu thế chúng ta cần trân trọng và phát huy ./.

Chú thích:

(1),(2) “Việt Nam Sử lược”, Trần Trọng Kim Q.I Sài Gòn 1971, tr 270, 275.

(3)   “Việt Nam Sử lược”, Trần Trọng Kim Q.II Sài Gòn 1971, tr 4-5. Riêng Mạc Mậu Hợp không có miếu hiệu.

Nguồn: Vương triều Mạc với sự canh tân đất nước (Nhà XB Cính trị Quốc gia, sự thật, Hà Nội 2015), do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, Hội sử học, Hà Nội – Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội phát hành.

GS. Sử học Văn Tạo

Nguyên Viện trưởng Viện Sử học Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Viết bình luận