Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung Phần 6 tiếp
Vốn đã chuẩn bị trước nên Nguyễn Văn Lang huy động được ngay vài nghìn quân, một nửa giao cho cha con Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Kim chặn đèo Tam Điệp, một nửa giao cho Nguyễn Văn Lự dàn suốt dọc bờ biển ngừa thuỷ quân của Uy Mục. Tiếp đó, bàn đến việc tiến quân ra Bắc. Bấy giờ ai cũng thấy tiên đoán của Nguyễn Bảo Khuê rằng phải đến tháng Chạp sang năm mới tới ngày tận số của hôn quân là có lý. Bây giờ chuyện đã lộ càng không thể manh động. Tiễu trừ hôn quân thì phải có lý do mới được quan quân mọi nơi hưởng ứng nên cần có hịch dụ các đại thần và tướng sĩ. Việc này giao cho quan Hàn lâm Lương Đắc Bằng.
Giản Tu Công thấy cần phải giấu tung tích nên giả xưng là Cẩm Giang vương, kêu gọi ứng nghĩa.
Trong khi ấy quân triều đình chia làm hai đường tiến đánh Thanh Hoa. Nguyễn Văn Lang đã phòng bị nên cả hai đường đều bị chặn lại.
Quân triều đình về tâu với Uy Mục rằng cầm đầu đám làm phản là Cẩm Giang vương Lê Sùng. Uy Mục liền cho quân bắt Lê Sùng và hai người em là Lê Vinh, Lê Quyên. Vợ Cẩm Giang vương vô tình dẫn các con về quê ngoại ăn giỗ nên thoát nạn.
... Vua Thánh Tông sinh được mười con trai thì Hiến Tông là trưởng, Kiến vương Lê Tân là thứ năm. Tuy nhiên họ chỉ cùng cha chứ khác mẹ. Mặc dù vậy, hai anh em thương yêu nhau như cùng một mẹ. Họ lại cùng sở thích văn chương, ngày còn Thánh Tông, mỗi khi vua cha làm thơ đều sai Hiến Tông và Kiến vương hoạ lại và bài hoạ của Kiến vương thường hay hơn vì vậy Hiến Tông nói với mọi người: “Tân giỏi hơn ta, đáng lẽ phải làm Đông cung Thái tử mới phải”. Kiến vương thì lại nói: “Thơ Thái tử phong cách thật đế vương, về sau đứng đầu thiên hạ là phải lắm”. Năm Cảnh Thống thứ 5 (1502) Kiến vương bị bệnh mất, vua Hiến Tông vô cùng thương xót nên nghỉ chầu ba ngày, hôm nào cũng túc trực bên linh cữu em. Kiến vương có 4 con trai là Cẩm Giang vương Sùng, Giản Tu công Oánh, Tĩnh Lượng công Vinh, con út là Lê Quyên còn nhỏ chưa được phong tước. Như vậy, Uy Mục đế và anh em nhà Cẩm Giang vương là con bác con chú.
Cẩm Giang vương là người sâu sắc, tế nhị và khiêm nhường, được thiên hạ ngưỡng mộ nên ai cũng ngạc nhiên khi nghe tin Cẩm Giang vương bị bắt vì tội mưu phản. Mười người thì đến chín người nghĩ ông bị oan.
Sau khi tra xét kỹ những kẻ bị bắt, quan Bộ Hình tâu Uy Mục tha cho đám chợ búa, thầy lang không liên quan, tất cả gần trăm người; còn lại khép tội 27 người. Bộ Hình thưa vì họ phần lớn trong hoàng gia vì vậy nên ban ngự tửu pha độc dược cho tự xử để đỡ mang tiếng, vả lại chưa có căn cứ xác đáng rằng Cẩm Giang vương làm phản, có thể Lê Oánh trí trá dùng anh làm bình phong nên bày ra thế. Uy Mục nổi giận:
- Ta đã không phanh thây chúng thành trăm mảnh thì thôi sao lại phải cho tự xử! Truyền chém đầu bêu cửa chợ!
Bọn đao phủ nghe nói phải chém Cẩm Giang vương kẻ kiếm cớ ốm, người đột ngột đi thăm họ hàng, chỉ còn mấy tên phụ trảm, đào huyệt và khiêng vác quan tài. Bộ Hình phải cho gọi lão đao phủ đã nghỉ việc quay lại pháp trường. Lão này khét tiếng hạ thủ không ghê tay nhưng vì đã cao tuổi, sau đó lại bị thọt, mất tư thế nên phải về vườn. Lão không vợ vì không ai dám lấy lão, do thế lão sống bất cần, chỉ cần cơm no rượu say là được. Thấy người của Bộ Hình đến nói việc xử trảm, lão hỏi phải chém bao nhiêu người, Bộ Hình bảo tất cả 27 người. Lão rung đùi khoái chí và nói vì không còn là đao phủ của triều đình nên cứ mỗi cái đầu lão “xin” 5 quan. Lão sẽ không dùng đao của triều đình mà dùng đao ông cha truyền lại, lưỡi nó sắc đến mức chém người không dính máu. Nhưng chém những 27 người thì lão phải mài đao cho thật bén, riêng việc mài phải mất nửa ngày. Tuy vậy, đề phòng giữa chừng đao cùn đao mẻ nên vẫn cứ phải mang phòng xa cho lão mấy thanh đao thật sắc.
Người của Bộ Hình về tâu. Uy Mục bảo: “Đầu bọn phản thần ấy quạ cũng không thèm rỉa mà đáng giá thế ư? Trả cho lão mỗi cái 1 quan. Song tiền thuê đao và việc mài đao kỳ công trả 110 quan. Tất cả là 137 quan, như vậy lão lời 2 quan. Nhưng bảo với lão, nếu phải dùng đao của triều đình thì mỗi cái đầu trừ đi của lão 10 quan, còn như không chém tới kẻ cuối cùng thì trừ hẳn 100 quan.”. Người của Bộ Hình nghĩ bụng: Hoàng thượng tính toán thật khéo, Trạng Lường mà tái sinh cũng phải bái phục.
Việc mặc cả xong xuôi, đến ngày xử trảm. Pháp trường phía Tây Nam thành, đó là một bãi rộng, cỏ mọc nham nhở. Xung quanh chỗ có tường xây chỗ không, tường cũng lở lói loang lổ. Một bụi chuối có lẽ đến gần trăm cây, vì không ai dám hái buồng ở đấy, cũng không ai chặt thân chuối về nuôi lợn nên nó mới rậm như thế. Cái bãi ấy không ai muốn đến gần nên mỗi lúc có việc hành hình, lính tráng phải lùng bắt những người ở gần đấy đến xem, sao khoảng dăm chục người là được. Tận xa là mô đất cao, kê ghế dành cho các quan Bộ Hình chứng giám việc hành tội. Hôm nay đích thân Uy Mục đến chứng kiến nên nghi lễ có khác mọi bận, nhà vua ngồi dưới lọng vàng, Lê Kỳ, Nguyễn Khắc Hài đứng sau, thị vệ gươm giáo sáng quắc.
Các tội nhân bị dẫn ra, đi đầu là Cẩm Giang vương, đi cuối là mẹ Giản Tu công. Đàn bà trẻ con khóc như ri, Cẩm Giang vương ngẩng cao đầu không một chút sợ hãi, lúc bị tra hỏi, ông có nói với chính Uy Mục: “Thần không có tội nhưng bệ hạ muốn thần phải chết thần cũng cam lòng, chỉ mong bệ hạ chăm lo sửa đức thì cơ ngơi tổ tông mới hy vọng lâu bền được”.
Quan Bộ Hình nêu tội trạng đám phản thần cho bàn dân thiên hạ đều hay.
Lão đao phủ thọt nhổ một sợi tóc, thổi vào lưỡi đao, sợi tóc đứt làm đôi. Lão hất hàm ra hiệu cho đám trống chiêng. Một tiếng trống, ba tiếng chiêng nổi lên. Trăm họ quanh pháp trường nín thở theo dõi không sót một cử chỉ của đao phủ. Lão nhìn lướt qua những cái đầu, nói: “Ta với các ngươi sống không thù nhau, chết xin đừng oán nhau, ta chỉ hành nghề kiếm miếng cơm hớp rượu mà thôi!”. Lão vung đao. Người xem nhiều người lại nhắm mắt lại. Lão nọ hạ thanh đao xuống thật nhanh. Cái đầu thứ nhất rụng, máu từ cổ phun như vòi rồng. Tiếp đến những cái đầu khác. Nhanh gọn đến ngạc nhiên. Vua Uy Mục quay ra sau hỏi Lê Kỳ:
- Tài quá! Ngươi có làm được như thế không?
- Tâu bệ hạ, thần chịu!
- Các vàng trẫm cũng chịu. Thật đáng đồng tiền bát gạo trả cho lão ta!
Thực ra lão thọt mỗi lúc một thấm mệt nên có lúc đã phải ngưng giây lát để thở. Đôi lúc lão còn phải hét lên hoặc văng tục trợ lực cho nhát chém. Trước đây 27 người chứ nhiều hơn nữa vẫn không bõ sức lão nhưng lâu nay không được hành nghề, lại tuổi tác cùng với rượu chè vô độ khiến sức lực lão không còn được như trước. Xong 15 cái đầu lão rã cả hai cánh tay. Bị dẫn ra pháp trường đầu tiên nhưng theo lệ, Cẩm Giang vương lại bị chém sau cùng, cốt để kẻ chủ mưu thấy rõ do hắn mà người thân liên luỵ. Người xem, kể cả Uy Mục như nín thở khi đao phủ xách đao đến bên Cẩm Giang vương. Không ai biết lão ta tưởng không thể xong việc, lão đã quá mệt, cái nhìn của Cẩm Giang vương lại khiến lão lạnh toát xương sống, cảm giác chưa bao giờ có ở lão, mắt lão hoa lên, cái đao như nặng đến nghìn cân. Nhưng nghĩ đến bao nhiêu tiền có thể mất trắng, lão gằn hết sức, miệng: “đ. mẹ” và bổ lưỡi đao xuống. Xong! Nhạc bát âm lập tức nổi lên tống tiễn những những hồn ma. Lão đao phủ nằm vật ra đất, mắt trợn ngược, mặt xám lại, bàn tay cầm đao dần dần duỗi ra. Lưỡi đao vẫn không dính dù một chút máu, trong khi mấy thanh đao dự phòng của triều đình những chỗ máu bắn vào đã thâm tím lại. Đám phụ trảm ra đỡ lão đao phủ dậy nhưng họ đều thất thần: Lão đã tắt thở! Người xem ra về, có người vừa cắm đầu cắm cổ chạy vừa nôn tung toé. Ngoài nghĩa địa người ta đã đào sẵn 27 cái huyệt, gần đấy là 27 chiếc quan tài, bây giờ thêm cái xác lão đao phủ, nên lại phải thêm quan tài, thêm huyệt. Nhà vua nói:
- Bảo chúng giữ thanh đao của lão nọ lại, dùng cho việc đại hình rất tốt.
Đó là ngày 13/11 năm Đoan Khánh thứ 5 (1509).
*
Trong khi ấy ở Thanh Hoa Lê Oánh bàn việc tiến quân. Không ít người lo không địch nổi các vệ binh Thiên Vũ, Thiên Bồng, Vũ Lâm, Cẩm Y và quân Túc vệ của Uy Mục. Mạc Đăng Dung là Chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ, quyền lớn, quân nhiều, cả xứ Thanh Hoa giờ đây không một ai đáng mặt địch nổi Đăng Dung. Lại còn Đàm Cử, Lê Kỳ nữa. Đang lúc không khí trầm xuống vì lo âu, một viên tuỳ tướng đứng sau Giản Tu công bước ra:
- Bẩm Đại vương, tiểu tướng có quen Mạc Đăng Dung, xin đi chiêu thuyết người này. Được Đăng Dung thì bọn còn lại không đáng kể gì.
Viên tiểu tướng đó là Vũ Hộ. Lê Oánh hỏi để chiêu thuyết được Mạc Đăng Dung, cần bao nhiêu vải vóc, tiền bạc. Vũ Hộ thưa:
- Năm Đoan Khánh thứ 3, tiểu tướng được làm lính Túc vệ nên có gần Đăng Dung vì Đăng Dung hồi đó cũng trong Túc vệ nhưng được vác dù cho Đoan Khánh. Đăng Dung trí dũng hơn người, chân thành, ngay thẳng, bề ngoài thì mềm mỏng mà bên trong thì cứng rắn; nói đúng thì nghe theo, nói không đúng quyết không nghe, dẫu có nghìn vàng cũng không lay chuyển được. Ngày trước tiểu tướng cùng với Đào Cứ có nhận lệnh Đại vương đi các nơi chiêu mộ hiền tài, dũng sĩ, Đăng Dung vật thắng Đào Cứ nên được năm tấm lụa và mười quan tiền. Tiểu tướng và Đào Cứ kéo Đăng Dung vào quán rượu để chuyện trò. Thấy Đăng Dung bỗng nhiên có tiền có lụa, người ăn xin kéo đến đầy cửa quán, người nào cũng còm cõi rách rưới thảm hại. Vậy là Đăng Dung đổi cả mười quan tiền ra tiền lẻ, cho ăn mày tất. Năm tấm lụa cũng cho họ ráo mang đi mà chia nhau! Nên tiểu tướng nghĩ để thuyết phục Đăng Dung chỉ cần lẽ phải và ba tấc lưỡi. Lẽ phải chúng ta có nhưng để có ba tấc lưỡi lại cần một trong hai người nữa. Hai người này chơi thân với nhau và đều qua lại thân thiết với Đăng Dung. Một người là Nguyễn Bỉnh Đức, hồi nhỏ học cùng Đăng Dung, nay làm thư lại ở Tứ Kỳ; người thứ hai là Lê Bá Ly nổi tiếng tài dũng, xem tướng giỏi, thích bàn chuyện quân cơ nhưng không ra làm quan, chỉ ham đi đây đó và đánh cờ, cứ cách vài tháng lại từ quê nhà Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì đi bộ tới Tứ Kỳ đánh cờ ít ngày với Bỉnh Đức rồi về, nếu Bỉnh Đức được nghỉ việc quan thì hai người rủ nhau thăm thú các nơi hoặc cùng tới chỗ Đăng Dung. Với hai người này cũng không cần đến tiền bạc nhưng riêng với Lê Bá Ly thì cần một con ngựa tốt.
- Để làm gì? – Ai đó buột miệng hỏi.
- Thưa, để hắn ta cưỡi đi chơi khắp nơi và tìm người đánh cờ!
Mọi người cùng cười. Giản Tu công bảo một ngựa chứ mười ngựa cũng có vì ông có trại ngựa vô vàn con ở Ba Vì. Nhưng liệu có nên tin vào một kẻ chỉ ham rong chơi và đánh cờ như Bá Ly không.
Nguyễn Hoằng Dụ nói xưa Gia Cát Lượng trước khi theo Lưu Bị cũng là một người như thế, quanh năm trong lều tranh mà biết thiên hạ tất yếu chia ba. Nghe có lý, Giản Tu công sai người đem đến con ngựa đen như gỗ mun. Ngay đó, Vũ Hộ cải trang rồi lên đường. Đường từ Thanh Hoa ra Thanh Trì không phải là gần, nếu không gặp được Bá Ly, phải đi Tứ Kỳ tìm Bỉnh Đức thì còn xa hơn. Sau đó lại phải cùng tới chỗ Đăng Dung.
Dọc đường Vũ Hộ nghe ngóng tình hình, thấy nơi nào cũng bàn tán. Tất cả các binh trấn đều đã nhận được chỉ dụ của triều đình truy lùng Lê Oánh và đám phản loạn. Cũng những nơi ấy chẳng bao lâu sau lại nhận được hịch dụ kêu gọi diệt trừ bạo chúa Lê Tuấn. Lúc này Vũ Hộ mới biết Cẩm Giang vương và hơn chục người trong gia đình đều bị Uy Mục giết, mẹ Giản Tu công cũng đã bị giết.
Mạc Đăng Dung và binh lính vệ Thiên Vũ nhận được cả chỉ dụ của nhà vua lẫn hịch dụ của Cẩm Giang vương và nghe đồn hịch ấy thực ra là của Giản Tu công Lê Oánh. Đăng Dung không dám khẳng định về Giản Tu công vì ông ta chưa bộc lộ chân tướng nhưng về vua Đoan Khánh thì quả như hịch viết: “Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Lần lữa gần được năm năm, tội ác đã đến muôn vẻ, giết hại người thân thuộc, dìm hãm các thần liêu, tiêu tiền như bùn đất, bạo ngược ngang Tần Chính, tà dâm như Hán Thành...”(*). Có điều, từ trước đến nay riêng với Đăng Dung, chưa bao giờ Đoan Khánh đối xử tệ, vì vậy Đăng Dung không thể không nghĩ ngợi. Mạc Đốc đang ở Nghi Dương, Mạc Quyết thì ở Đông Kinh, không có ai tâm huyết bên cạnh để bàn bạc, Đăng Dung chỉ còn biết nhắc mình phải thận trọng trong mọi hành động.
Đang lúc ấy, hầu cận thưa có khách là Lê Bá Ly và một người nữa đến chơi. Thật là cầu người, người lại có ngay. Nhưng người đi cùng Bá Ly là ai? Khách bước vào, bỏ nón xuống, hoá ra đi cùng Bá Ly là Vũ Hộ. Biết Vũ Hộ là người của Lê Oánh nên Đăng Dung xua hết hầu cận ra ngoài. Họ ăn trầu uống nước, chuyện trò rôm rả những chuyện trên trời dưới đất, chuyện nhà cửa vợ con cho lính tráng khỏi nghi ngờ rồi bày cờ, thì thầm bàn việc trong tiếng quân cờ lách cách, tiếng đập ăn quân chan chát. Bá Ly nói rằng thời thế đã đến lúc thay đổi, đây chính là cơ hội cho người anh hùng. Đăng Dung nghĩ: Tay này khôn đến lõi đời, chỉ đi khuyên người ta còn mình bao nhiêu năm nay cứ đứng ngoài cuộc. Sợ ngồi lâu không tiện, Bá Ly và Vũ Hộ đứng dậy, chờ đợi câu trả lời của Đăng Dung để rồi cáo từ. Đăng Dung bảo: “Thanh Hoa đến đây, tôi sẽ làm ngơ”, có nghĩa Đăng Dung sẽ không ứng nghĩa nhưng nếu quân Thanh Hoa đến sẽ án binh bất động rồi tuân theo kết cục.
Vũ Hộ về Thanh Hoa, nghe tin mẹ và anh em ở kinh bị Uy Mục giết hại, Giản Tu công lặng đi hồi lâu. Lê Oánh và Nguyễn Văn Lang đều không bằng lòng với thái độ lấp lửng của Đăng Dung song đành phải chấp nhận.
Tháng Một năm ấy (Kỷ tị, 1509), chọn ngày tốt, Lê Oánh hạ lệnh xuất quân để kịp tháng Chạp ứng với điềm Lê Tuấn tới ngày tận số. Hai tướng trẻ là Nguyễn Văn Lự và Nguyễn Kim đi tiên phong, Lê Oánh và Nguyễn Văn Lang, Lê Quảng Độ đi trung quân, Nguyễn Hoằng Dụ đi tiếp ứng, đám họ Trịnh lo hậu cần, quân lương. Quân Thanh Hoa ra đến Sơn Nam không gặp một trở ngại nào, quân triều đình số đầu hàng, số tan tác chạy về kinh đô. Chẳng mấy chốc quân Thanh Hoa đã áp sát doanh trại vệ Thiên Vũ. Thấy trại vệ Thiên Vũ im ắng, không hiểu ý tứ Đăng Dung thế nào, Lê Oánh cho quân dừng lại, hạ trại cách năm dặm.
Trong khi ấy, Phó chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ Nguyễn Thọ giục Đăng Dung xuất quân. Đăng Dung hỏi:
- Hoàng thượng với Giản Tu công là người thế nào?
- Tất nhiên là anh em trong hoàng tộc.- Nguyễn Thọ đáp.
- Tôi và ông là như thế nào với hoàng tộc?
- Chúng ta chỉ là người ngoài.
- Là người ngoài, chúng ta không nên can dự vào việc riêng của hoàng tộc.
Nguyễn Thọ hỏi lại:
- Nguyễn Văn Lang, Trịnh Duy Sản là người thế nào mà họ cũng can thiệp vào chuyện hoàng tộc?
- Cả hai đều là ngoại thích của hoàng gia.
Nguyễn Thọ nổi giận:
- Ta và ông đều ăn lộc của triều đình, nay triều đình gặp nguy sao lại đứng ngoài được? Khác gì cháy nhà hàng xóm bình chân như vại?
- Triều đình không có nghĩa là nhà vua. Nay vua Đoan Khánh gặp nguy chứ không phải triều đình gặp nguy. Thanh Hoa là đất căn bản của triều đình chứ không phải của riêng vua Đoan Khánh. Tôi và ông đều mang ơn nhà vua, nhưng quân Thanh Hoa nổi can qua chắc phải có lý, lại truyền hịch khắp nơi khiến binh trấn các nơi đều xao xuyến, chưa đánh đã ngả giáo qui hàng. Chúng ta thân cô thế cô liệu có chữa cháy được không, hay là lại khiến Giản Tu công nổi giận, chẳng khác nào thêm dầu vào lửa và khiến sinh linh khốn khổ?
- Ta thà chết chứ không phụ Hoàng thượng! - Nguyễn Thọ nói và ra khỏi trại, giơ cao thanh đao hô lớn: Ai theo ta xông vào trại địch lấy đầu tên phản thần Lê Oánh?
Mấy trăm người theo Nguyễn Thọ nhưng quay lại thấy hầu hết vẫn đứng im, liền trở giáo gần hết, chỉ còn mấy người nên tất cả bàn nhau quay ngựa chạy về kinh thành.
Thấy Đăng Dung không động tĩnh, quân Thanh Hoa vòng qua trại binh vệ Thiên Vũ để tới Đông Kinh. Mạc Quyết trong quân Túc vệ đã được anh thông báo cách ứng xử nên cáo ốm nằm nhà. Quân Túc vệ giữ kinh thành phần theo Lê Kỳ, phần theo Trần Công Vụ, có kẻ nhân cơ hội trốn về quê, người nào lo thân người ấy, không còn ai bảo được ai, rất là hỗn loạn. Đang đêm Phò mã Đô uý là Lê Mậu Chiêu mở cổng thành cho quân Thanh Hoa ùa vào. Quân Túc vệ càng hoảng loạn. Quay đi quay lại quanh Uy Mục chỉ còn chưa đầy một trăm quân của Lê Kỳ nhưng cung nữ và hoạn quan thì tới vài trăm. Riêng việc chúng kêu la khóc lóc đã khiến nhà vua rối cả ruột gan. Lê Quý phi và Trần Tu dung không rời nhà vua nửa bước, chỉ không thấy Hoàng hậu đâu!
Nguyễn Khắc Hài sai Lê Kỳ cùng quân Túc vệ và các hoạn quan ngăn đám cung nữ lại nên đưa được Uy Mục theo lối Cửa Bắc thoát lên phường Nhật Chiêu. Quân Thanh Hoa phá được cửa hoàng thành, giáp chiến quyết liệt với quân Túc vệ. Quân Túc vệ ít nên quẳng gươm giáo, vứt nón, cởi áo táo tác mỗi người một ngả, Lê Kỳ thét đứng lại không nổi cũng bỏ chạy. Quân Thanh Hoa đuổi theo, Lê Kỳ quay lại giết được dăm người rồi bị chúng băm thành trăm mảnh.
Khắc Hài đưa Uy Mục vào nhà một người quen bên Tây Hồ. Chủ nhà đưa nhà vua và Khắc Hài trốn lên gác rồi xin phép được xuống nhà dưới canh phòng. Uy Mục bảo Khắc Hài:
- May có khanh, không thì trẫm chết mất. Nhưng Hoàng hậu đâu? Lê Quý phi đâu? Các hoạn quan đâu cả? Không có họ trẫm sống làm sao nổi?
- Xin bệ hạ hãy yên tâm, rồi thần sẽ tìm được họ.
- Giờ khanh định thế nào?
Khắc Hài khóc:
- Thần chỉ là một kẻ quê mùa, được bệ hạ yêu hết mực, thật ơn như trời bể, nay thần nguyện đem sức khuyển mã báo đáp, dẫu gan óc lầy đất cũng cam lòng. Chờ đến tối thần sẽ đưa bệ hạ qua sông sang Đông Ngàn với vệ Thiên Bồng bên ấy. Bệ hạ phát hịch cần vương quy tụ vệ Vũ Lâm, Cẩm Y và hiệu triệu trấn binh các xứ Kinh Bắc, Hải Dương, thể nào cũng được vài vạn, dư sức đòi lại Đông Kinh.
- Tên chủ nhà có đủ tin không? Trẫm sợ...
Dưới đường bỗng sáng rực lên và có tiếng ồn ào. Uy Mục run như cầy sấy. Khắc Hài ghé mắt qua cửa sổ nhìn xuống và hoảng hồn khi thấy chính chủ nhà đang chỉ trỏ dẫn đường cho quân Thanh Hoa. “Hỏng rồi bệ hạ ơi!” – Khắc Hài mới kịp kêu lên thì quân Thanh Hoa đã rầm rập lên gác. Uy Mục chui tụt vào gầm giường nhưng áo quần lại quên kéo vào theo nên vẫn loà xoà một đám bên ngoài, bị giặc túm lấy lôi ra.
- Khắc Hài đâu, cứu ta! – Uy Mục kêu lên, tay giữ cổ áo cho khỏi nghẹn vì bị quân Thanh Hoa lôi xềnh xệch như lôi cổ chó.
Không thấy Khắc Hài đâu.
Uy Mục bị dẫn tới chỗ Giản Tu công.
- Tên hôn quân kia, ngươi biết tội của ngươi chưa? - Lê Oánh chỉ mặt Uy Mục - Bạo ngược vô đạo, hoang dâm vô độ, giết hại công thần, tin dùng ngoại thích, tàn sát nhân dân, chỉ mới mấy năm mà tội ngươi đã chất cao như núi, nay giáng ngươi xuống làm Mẫn Lệ công...
Hôn quân dập đầu lấy dập đầu để:
- Thần chỉ mong được sống, nay còn ban cho chức tước, thật vô cùng...
Giản Tu công ngửa cổ cười ha hả:
- Ta đã nói hết đâu! Cho chức tước là một chuyện còn để ngươi sống hay chết lại là chuyện khác. Hàn lâm học sĩ đâu?
Lương Đắc Bằng bước ra đọc tờ chiếu đã thảo sẵn, giáng Uy Mục xuống làm Mẫn Lệ công, truyền Bộ Hình xử lý. Đao phủ xốc Uy Mục dậy, lôi đi. Uy Mục giãy giụa và gầm lên:
- Ta tiếc trước đây còn nghĩ đến tình anh em mà để cho ngươi sống! ác giả ác báo, rồi ngươi cũng không ra gì đâu!
Uy Mục bị đao phủ đập sống đao vào mồm cho không nói được. Đám phản loạn treo lên xà nhà chiếc thòng lọng rồi bỏ ra ngoài, để Uy Mục tự xử. Sáng hôm sau chúng vào gỡ xác, cứt đái một đám trong quần và bê bết trên mặt đất. Uy Mục chết khi mới 22 tuổi, làm vua được 5 năm.
Sử quan là Lê Hy viết: “ Giết rồi, vua sai cho xác Mẫn Lệ công vào họng súng thần công, súng nổ tan xác, tro tàn đem về chôn ở quê mẹ là làng Phù Chẩn chứ không được chôn cùng các tiên đế ở Lam Kinh vì sinh thời Mẫn Lệ công chỉ tín nhiệm ngoại thích. Tín nhiệm ngoại thích, bạo ngược vô đạo, giết hại tôn thất, tàn hại nhân dân, tự chuốc lấy diệt vong, chẳng cũng đáng sao!”. Sau đấy mấy hôm, sử quan Vũ Quỳnh tới chơi nhà Lê Hy, bảo: “Ông viết trắng ra cái chết của Mẫn Lệ công như thế, không sợ sao?”. Lê Hy nói: “Vua Thánh Tông nhà Lê ta là bậc thánh ở đời, vậy mà sử quan Lê Nghĩa quyết giữ lòng ngay dạ thẳng, khí tiết như cổ nhân, không cho Thánh Tông xem quốc sử đang soạn để biên chép được tự do, Thánh Tông cũng phải chịu. Nay tôi viết vậy cũng là học theo người xưa, làm tròn trách nhiệm của người chép sử.”.
Lê Quý phi và Trần Tu dung với mấy phi tần nữa trốn trong vườn Thượng uyển. Đến sáng, biết nhà vua đã bị bắt, tất cả cùng khóc lóc thảm thiết. Họ hỏi nhau liệu mình có bị giết không. Trần Tu dung bảo Lê Quý phi:
- Chỉ mày bị giết thôi vì mày mang giọt máu của Hoàng thượng!
- Đâu, làm gì có!
- Sao bảo mày mơ được thần nhân dâng ngọc tỉ với hai cái ấn nên các quan bói toán và bảo thể nào mày cũng sinh con thánh? Hoá ra chưa có thai à? Bịa chuyện giỏi thật, dơ chưa!
Lê Quý phi xấu hổ đỏ cả mặt.
- Xem đây này,- Trần Tu dung vén áo cho xem bụng - Tao lại mang thai đây này!
Lê Quý phi chợt cười:
- Khốn nạn cho cái thân mày rồi! Vua Đoan Khánh bị Oánh giết thì liệu Oánh có để yên cho mày giữ đứa con của Đoan Khánh không?
Trần Tu dung biết mình lỡ dại, cũng cười:
- Đùa thế thôi, làm gì có chuyện ấy. Tại tao dạo này béo ra thôi. Mày biết đấy, nhà vua như bát canh chỉ rặt nước mà không có cái, chúng mình thụ thai sao được! Bây giờ nhà vua mất rồi, chúng mình đều là phận đàn bà, chả thương nhau thì còn ai thương cho, vậy nên phải nghĩ cách cứu lấy cái thân mình. Theo tao, chúng ta chia tay nhau ở đây, ai về quê người ấy, sau này yên ổn, có rỗi thì đến thăm nhau, coi những ngày vừa qua như thể phù hoa vậy.
Lê Quý phi cảm thấy mủi lòng, xiết chặt tay Trần Tu dung rồi hai người chia tay nhau.
Trần Hoàng hậu không theo được nhà vua. Nàng và hai người hầu chạy theo lối cửa Đông, tới bờ sông những mong có đò để sang bên kia, chưa thấy đò đâu thì quân Thanh Hoa đuổi tới, Hoàng hậu liền chạy xuống phường Hồng Mai trốn vào một ngôi đền. Được mấy ngày, nghe tin Uy Mục chết quá thảm thương, nàng bảo hai người hầu:
- Ta sinh ra đã có cái nốt ruồi “thương phu trích lệ” này, trước đây cứ nghĩ cái điềm báo trước nỗi thương khóc Trần huynh, bây giờ mới biết là không phải vì nhà vua mới chính là chồng ta. Các ngươi theo hầu ta đến tận đây đã là tận tâm. Nay các ngươi ai quê đâu hãy về đấy, ta có mang theo ít trang sức, nay cho các ngươi làm chút gia tài. Ta đã một lần sinh con chẳng lành, sau đó tưởng lại mang trong mình giọt máu của Hoàng thượng thì quyết sống để giữ lấy ruột rà cho Hoàng thượng nhưng hoá ra không phải. Trời bất công với ta đến thế! Ta còn thiết sống làm gì nữa! Thôi thì những ngày đã qua coi như giấc mơ. Hoàng thượng dẫu có thế nào thì cũng là nơi ta trót gửi thân xác, nay Hoàng thượng đã đi ta không thể không đi theo. Sau khi ta đi, xác ta thế nào để nguyên thế ấy cho mọi người đều biết.
Hai người hầu khóc lóc, khuyên can không nổi. Họ nức nở giúp Hoàng hậu treo cổ tự vẫn, sau đó kiếm hương thắp cho Hoàng hậu, ngồi chờ tàn hương mới đi.
(*) Tần Thuỷ hoàng và Hán Thành đế.
Viết bình luận